Trong những năm trở lại đây Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng nông thôn, vùng sâu đặc biệt là vùng nông thôn miền núi. Với vùng nông thôn miền núi các chính sách đưa ra đều hướng tới việc nâng cao hiệu quả kinh tế, chất lượng cuộc sống của người dân và xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, việc phát triển các hệ thống canh tác mang lại hiệu quả trên nhiều mặt ở các tỉnh miền núi đã và đang là vấn đề cấp thiết.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường và hiệu quả tổng hợp của các hệ thống canh tác tại miền núi có sự khác nhau và phụ thuộc nhiều vào việc chọn lựa các hệ thống canh tác thích hợp với điều kiện từng vùng. Nếu việc chọn lựa các hệ thống canh tác chỉ tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội mà không tính đến hiệu quả môi trường thì dễ dẫn đến làm cạn kiệt nguồn tài nguyên ở khu vực đó. Ngược lại, nếu chỉ xét đến hiệu quả môi trường mà không chú ý đến hiệu quả kinh tế - xã hội thì việc nâng cao mức sống của người dân và phát triển kinh tế vùng là điều khó có thể thực hiện được. Trên thực tế, ở các vùng sản xuất NLN, hiện tượng xói mòn rửa trôi trên các vùng đất dốc diễn ra rất mạnh làm đất đai nghèo dinh dưỡng làm giảm khả năng canh tác dẫn đến năng suất cây trồng cũng giảm dần, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và kinh tế của người dân.
Việc phát triển các hệ thống canh tác đang là một hướng đi có triển vọng ở miền núi Việt Nam, nhằm giải quyết đa dạng các nhu cầu về sản phẩm NLN; các hệ thống canh tác còn tỏ ra có hiệu quả hơn hẳn các lối canh tác truyền thống như độc canh, du canh bỏ hóa trước đây.
Cao Sơn là một xã miền núi, nằm trong vùng phòng hộ hồ thủy điện Hòa Bình thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình đã và đang được phát triển nhiều hệ thống canh tác khác nhau. Song, các hệ thống canh tác này được xây dựng dựa trên việc khai thác và sử dụng đất đai bằng những kinh nghiệm sẵn có và với trình độ hạn chế, nên hiệu quả của các hệ thống canh tác thấp. Cho đến nay, ở xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình vẫn còn thiếu những nghiên cứu về hiệu quả các hệ thống canh tác để làm định hướng cho việc phát triển các hệ thống canh tác mang lại hiệu quả tổng hợp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể lựa chọn được một hệ thống canh tác hợp lý và có tác động tích cực đến kinh tế, xã hội, môi trường. Hệ thống canh tác đó phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất và còn phát huy được cả chức năng phòng hộ, đảm bảo tính bền vững lâu dài và nâng cao đời sống của người dân tại điểm nghiên cứu nói riêng và vùng phòng hộ hồ thủy điện Hòa Bình nói chung.
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, đề tài: “Đánh giá hiệu quả của một số hệ thống canh tác điển hình tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình” được thực hiện nhằm xác định một số hệ thống canh tác có hiệu quả cao và làm cơ sở đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật nhằm cải thiện cấu trúc và nâng cao hiệu quả của các hệ thống tại xã Cao Sơn – vùng ven hồ thủy điện tỉnh Hòa Bình.
70 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả của một số hệ thống canh tác điển hình tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm trở lại đây Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng nông thôn, vùng sâu…đặc biệt là vùng nông thôn miền núi. Với vùng nông thôn miền núi các chính sách đưa ra đều hướng tới việc nâng cao hiệu quả kinh tế, chất lượng cuộc sống của người dân và xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, việc phát triển các hệ thống canh tác mang lại hiệu quả trên nhiều mặt ở các tỉnh miền núi đã và đang là vấn đề cấp thiết.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường và hiệu quả tổng hợp của các hệ thống canh tác tại miền núi có sự khác nhau và phụ thuộc nhiều vào việc chọn lựa các hệ thống canh tác thích hợp với điều kiện từng vùng. Nếu việc chọn lựa các hệ thống canh tác chỉ tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội mà không tính đến hiệu quả môi trường thì dễ dẫn đến làm cạn kiệt nguồn tài nguyên ở khu vực đó. Ngược lại, nếu chỉ xét đến hiệu quả môi trường mà không chú ý đến hiệu quả kinh tế - xã hội thì việc nâng cao mức sống của người dân và phát triển kinh tế vùng là điều khó có thể thực hiện được. Trên thực tế, ở các vùng sản xuất NLN, hiện tượng xói mòn rửa trôi trên các vùng đất dốc diễn ra rất mạnh làm đất đai nghèo dinh dưỡng làm giảm khả năng canh tác dẫn đến năng suất cây trồng cũng giảm dần, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và kinh tế của người dân.
Việc phát triển các hệ thống canh tác đang là một hướng đi có triển vọng ở miền núi Việt Nam, nhằm giải quyết đa dạng các nhu cầu về sản phẩm NLN; các hệ thống canh tác còn tỏ ra có hiệu quả hơn hẳn các lối canh tác truyền thống như độc canh, du canh bỏ hóa…trước đây.
Cao Sơn là một xã miền núi, nằm trong vùng phòng hộ hồ thủy điện Hòa Bình thuộc huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình đã và đang được phát triển nhiều hệ thống canh tác khác nhau. Song, các hệ thống canh tác này được xây dựng dựa trên việc khai thác và sử dụng đất đai bằng những kinh nghiệm sẵn có và với trình độ hạn chế, nên hiệu quả của các hệ thống canh tác thấp. Cho đến nay, ở xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình vẫn còn thiếu những nghiên cứu về hiệu quả các hệ thống canh tác để làm định hướng cho việc phát triển các hệ thống canh tác mang lại hiệu quả tổng hợp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể lựa chọn được một hệ thống canh tác hợp lý và có tác động tích cực đến kinh tế, xã hội, môi trường. Hệ thống canh tác đó phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất và còn phát huy được cả chức năng phòng hộ, đảm bảo tính bền vững lâu dài và nâng cao đời sống của người dân tại điểm nghiên cứu nói riêng và vùng phòng hộ hồ thủy điện Hòa Bình nói chung.
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, đề tài: “Đánh giá hiệu quả của một số hệ thống canh tác điển hình tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình” được thực hiện nhằm xác định một số hệ thống canh tác có hiệu quả cao và làm cơ sở đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật nhằm cải thiện cấu trúc và nâng cao hiệu quả của các hệ thống tại xã Cao Sơn – vùng ven hồ thủy điện tỉnh Hòa Bình.
PHẦN II
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Lý thuyết về hệ thống
Năm 1920 L.Vonbertanlanfy đã đề xuất cơ sở cho lý thuyết hệ thống và nó được ứng dụng rất rộng rãi trong công tác nghiên cứu khoa học nông nghiệp cũng như nhiều lĩnh vực khác. Có thể nói nó như một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp.
Khái niệm hệ thống: “Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ và tác động qua lại, một hệ thống có thể xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc tính được liên kết bằng nhiều mối tương tác” (L.Vonbertanlanfy,1920)
Theo L.Vonbertanlanfy nếu chỉ nghiên cứu các đặc điểm cơ bản của các tổ chức sống riêng biệt thì chưa thể giải thích đầy đủ về sự phát triển và tiến hoá của sinh giới, sự phát triển của các ngành khoa học cần phải nghiên cứu các quy luật trong toàn bộ các mối quan hệ của chúng.
Hệ thống là một tổng thể có trật tự các yếu tố khác nhau có quan hệ tác động qua lại. Hệ thống không phải là một phép cộng đơn giản của các yếu tố, các đối tượng mà là sự kết hợp hữu cơ giữa các yếu tố, các đối tượng. Mỗi hệ thống bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hợp thành, đến lượt mình nó lại là bộ phận cấu thành của bộ phận lớn hơn.
Các yếu tố bên ngoài hệ thống nhưng có tác động tương tác với hệ thống gọi là yếu tố môi trường. Những yếu tố môi trường tác động lên hệ thống gọi là yếu tố đầu vào, những yếu tố môi trường chịu tác động trở lại của hệ thống gọi là yếu tố đầu ra.
Trong thiên nhiên có hai loại hệ thống cơ bản:
- Hệ thống kín: Là hệ thống mà ở đó các yếu tố tương tác với nhau trong phạm vi hệ thống
- Hệ thống mở: Là hệ thống mà ở đó các yếu tố tương tác với nhau giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra, giữa yếu tố bên trong và bên ngoài.
Hiện nay nghiên cứu hệ thống có hai phương pháp cơ bản:
- Nghiên cứu hoàn thiện hoặc cải tiến một hệ thống đã có sẵn. Thông qua phương pháp phân tích hệ thống nhằm tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt lại của hệ thống cần được sửa chữa, khai thông để hệ thống hoàn thiện hơn, hoạt động có hiệu quả hơn.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống mới, phương pháp này mang tính chất vĩ mô đòi hỏi phải có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng.
2.1.2. Lý thuyết về hệ thống nông nghiệp
Nông nghiệp đã gắn bó với con người từ hàng vạn năm nay, nó là ngành quan trọng sản xuất ra vật chất duy trì và phát triển xã hội loài người. Ngày nay, khái niệm hệ thống nông nghiệp đã trở lên phổ biến và nhìn từ nhiều góc độ khác nhau thì việc áp dụng vào nghiên cứu phát triển nông nghiệp ở mỗi nước là có sự khác nhau.
Theo Phạm Chí Thành và cộng sự, 1969 [6] đến nay đã có một số định nghĩa về hệ thống nông nghiệp như sau:
- Hệ thống nông nghiệp là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thoả mãn các nhu cầu. Nó biểu hiện sự tác động qua lại giữa hệ thống sinh học – sinh thái mà môi trường tự nhiên là đại diện và hệ thống xã hội – văn hoá qua các hoạt động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật (Vissac, 1979).
- Hệ thống nông nghiệp trước hết là một phương thức khai thác môi trường được hình thành và phát triển trong lịch sử, một hệ thống sản xuất thích ứng với các điều kiện sinh thái khí hậu của một không gian nhất định, đáp ứng với các điều kiện và nhu cầu của thời điểm đó (Mozoyer, 1986).
- Hệ thống nông nghiệp thích ứng với các phương thức khai thác nông nghiệp của không gian nhất định do một xã hội tiến hành, là kết quả của sự phối hợp các nhân tố tự nhiên, xã hội – văn hoá, kinh tế và kỹ thuật (Jouve, 1988).
Theo Đào Thế Tuấn, 1989 [7] hệ thống nông nghiệp về thực chất là sự thống nhất của hai hệ thống: (1) Hệ sinh thái nông nghiệp là một bộ phận của hệ sinh thái tự nhiên, bao gồm các vật sống (cây trồng, vật nuôi) trao đổi năng lượng, vật chất và thông tin với ngoại cảnh, tạo nên năng suất sơ cấp (trồng trọt) và thứ cấp (chăn nuôi) của hệ sinh thái; (2) Hệ kinh tế - xã hội, chủ yếu là hoạt động của con người trong sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội.
Trong thực tế hiện nay vẫn còn nhiều các quan điểm tồn tại về nhận thức và tiếp cận của hệ thống nông nghiệp nhưng mục tiêu chung của các quan điểm đều hướng tới việc khai thác có hiệu quả các điều kiện tự nhiên, môi trường xung quanh đồng thời đảm bảo tính bền vững và lâu dài trong việc khai thác.
2.1.3. Lý thuyết về hệ thống canh tác
HTCT đang là mối quan tâm lớn của rất nhiều nước trên thế giới vì đó là đầu mối để có thể phát triển NLN của mỗi quốc gia. Với sự phát triển xã hội ngày càng cao thì việc đáp ứng đa dạng các sản phẩm NLN càng tỏ ra cấp thiết hơn. Chính vì thế, lối sản xuất độc canh cây trồng sẽ trở nên không thích hợp với sự phát triển xã hội. Các HTCT đã thể hiện được tính ưu việt của nó về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường. Tuy nhiên, để tìm ra được một HTCT hợp lý cho mỗi vùng đang là bài toán khó.
Khái niệm về HTCT:
HTCT là sự bố trí một cách thống nhất và ổn định các ngành nghề trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự nhiên, sinh học và kinh tế xã hội, phù hợp với mục tiêu, sự mong muốn và nguồn lực của hộ.
- Yếu tố sinh học: Là bao gồm các cây trồng, vật nuôi được canh tác để thoả mãn mục tiêu, sự mong muốn và nguồn lực của hộ.
+ Hệ phụ trồng trọt: Hệ phụ trồng trọt là một phần chủ yếu của HTCT, nói đến trồng trọt là nói đến cây trồng vì vậy hệ thống cây trồng lại là bộ phận quan trọng của hệ phụ trồng trọt, là trung tâm của hệ phụ trồng trọt.
+ Hệ phụ chăn nuôi: Là bao gồm tổng hợp các khâu kỹ thuật từ chọn giống đến thức ăn, chế biến sản phẩm,…Hệ phụ này có quan hệ chặt chẽ đến trồng trọt, chúng tác động qua lại với nhau nhằm thoả mãn mục tiêu và nhu cầu của nông hộ sao cho sự tác động đó đem lại hiệu quả về mọi mặt là cao nhất.
- Yếu tố tự nhiên: Bao gồm các yếu tố quan trọng là khí hậu, đất và nước, các yếu tố này có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành vùng sinh thái nông nghiệp, từ đó bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp.
- Yếu tố kinh tế, xã hội: Là những yếu tố như tín dụng, thị trường, các phong tục tập quán trong đời sống cũng như trong canh tác, các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các HTCT.
- Người nông dân: Là người trực tiếp tạo ra sản phẩm, có tác động lớn đến hiệu quả của các HTCT.
Như vậy, tất cả các yếu tố của HTCT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi một yếu tố thay đổi sẽ dẫn đến các yếu tố khác thay đổi và dẫn đến hệ thống thay đổi theo.
Theo H.G. Zandstra HTCT là một khái niệm chưa được phổ cập, phải phân biệt nó với việc nghiên cứu nông học, quản lý tài nguyên hay hệ thống nông nghiệp. Nghiên cứu HTCT nhằm tăng lợi nhuận sản xuất cây trồng từ những tài nguyên thiên nhiên sẵn có, lấy hệ thống cây trồng làm biến số, đó là hoạt động bị giới hạn trong ngành trồng trọt và được đặt trong hoạt động nghiên cứu hệ sản xuất của trang trại [19]
Theo M.Sectisarn - Hệ thống canh tác là sản phẩm của 4 nhóm biến số: Môi trường - kỹ thuật sản xuất – tài nguyên – xã hội [17]
Qua đó chúng tôi thấy được nghiên cứu HTCT là phương pháp nghiên cứu NLN nhìn toàn bộ nông trại như một hệ thống. Nghiên cứu HTCT tập trung vào những mối tương tác giữa thành phần cấu tạo của hệ thống trong tầm kiểm soát của nông hộ và cách thức mà những thành phần này chịu tác động bởi các điều kiện vật lý, sinh học, kinh tế xã hội ngoài tầm kiểm soát của nông hộ.
2.2. Những kết quả nghiên cứu về HTCT
Trong những năm qua, nghiên cứu nông nghiệp theo phương pháp hệ thống là một vấn đề phổ biến trên thế giới nhằm phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, sử dụng một cách hữu hiệu các nguồn lực tại chỗ, hạn chế việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái. Nghiên cứu hệ thống góp phần tạo điều kiện cho các thành phần của hệ thống có cơ hội tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau phát triển, tránh được tình trạng thành phần này cản trở sự phát triển của thành phần kia.
2.2.1. Trên thế giới
Việc phát triển nông nghiệp hầu hết dựa vào các cơ sở sản xuất tư nhân, đó chủ yếu là các trang trại cung cấp. Do vậy, nhà nước rất quan tâm đến sự tồn tại và phát triển của các trang trại và đã dành một khoản ngân sách không nhỏ để đầu tư cho kỹ thuật và vốn của trang trại với lãi suất thấp. Trên thế giới đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về HTCT từ lâu và theo nhiều hướng khác nhau.
Sản xuất nông nghiệp trên đất đồi núi bao gồm canh tác trên đất dốc và đất bằng trồng cả cây hàng năm và cây lâu năm, cùng có cả việc canh tác trên đất ngập nước ở thung lũng, các thềm bậc thang có nguồn nước, nhưng nhìn chung đất nông nghiệp ở miền núi phần lớn là đất dốc. Theo tài liệu của FAO thì các vùng đồi núi, đất nông nghiệp có độ dốc trên 150 thường chiếm tới 50 -60% trong tổng số đất nông nghiệp được khai thác. Đất nông nghiệp ở vùng đồi núi thực chất là vấn đề nghiên cứu canh tác trên đất dốc, nghiên cứu mối quan hệ giữa HTCT với vấn đề xói mòn, rửa trôi [5].
- HTCT Taungya (Taungya System): Được bắt đầu ở Mianma vào những năm 1856. Nhà nước đã cho trồng rừng gỗ tếch kết hợp trồng lúa cạn, ngô trồng hai năm đầu khi rừng chưa khép tán. Mục tiêu chính của hệ thống canh tác này là khôi phục lại rừng bị tàn phá, sản xuất lương thực là thu nhập phụ. Đây là dạng mô hình chuyển tiếp từ canh tác nương rẫy sang canh tác nông lâm kết hợp [15].
- Theo Blanford 1958, Taungya là một từ địa phương của ngôn ngữ Myanma: “Taung” nghĩa là canh tác, “ya” là đồi núi. Đây là một phương thức canh tác được phát triển dựa trên hệ thống “Waldfeldbau” nổi tiếng của người Đức, trong đó bao gồm canh tác các cây nông nghiệp ở ngay tại rừng. Vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XIX, Ấn Độ đã sử dụng hệ thống này để tái sinh, phục hồi lại rừng trên đất đã khai hoang bằng cách gieo hạt Tếch kết hợp với trồng hoa màu của nông dân. Một cách khái quát, Taungya là một HTCT mà trong đó bao gồm sự kết hợp đồng thời của hai thành phần (cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp) trong những giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành rừng trồng, đổi lại họ phải giữ gìn rừng non, sau vài năm khi rừng khép tán, hoa màu không thể trồng được nữa, họ sẽ di chuyển sang khu vực khác nếu quỹ đất còn cho phép. Như vậy, sản phẩm gỗ là mục tiêu cuối cùng trong Taungya nhưng động lực thúc đẩy trước mắt với thực tiễn là sản xuất lương thực (Phạm Quang Vinh và các tác giả, 2005) [15].
- HTCT trong nông trại: Dân tộc Infugao (Philippin) biết canh tác lúa nước ở ruộng có hệ thống tưới nước, kết hợp trồng cây gỗ để lấy củi, cây ăn quả, cây thuốc. Hệ thống này giữ được nước và chỗng xói mòn, sạt lở đất, đảm bảo tính bền vững [15].
- HTCT trong nông lâm kết hợp: Đa dạng theo nhiều phương thức trồng và mật độ khác nhau được áp dụng rộng rãi ở Miền Trung và Bắc của Trung Quốc. Cây đa mục đích được trồng xen theo nguyên tắc đa loài tạo ra sản phẩm quanh năm và mang tính hoang hóa. Trung Quốc phân loại nông lâm kết hợp theo vùng sinh thái (vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng). Mỗi loại hình nông lâm kết hợp phù hợp với từng vùng sinh thái riêng, nhưng đều đảm bảo lợi ích kinh tế theo kiểu kinh tế trang trại [15].
Theo trung tâm phát triển đời sống nông thôn ở Mindanao Philippin vấn đề sử dụng đất dốc có hiệu quả kinh tế vừa có tác dụng bảo vệ tài nguyên đất là cần phải xây dựng mô hình nông lâm kết hợp theo kiểu SALT [20].
Hoey.M,1990 đưa ra mô hình sử dụng đất dốc nhấn mạnh việc làm đường đồng mức, trồng cỏ theo băng, hạn chế làm đất đến mức tối thiểu góp phần phát triển NLN ổn định ở Bắc Thái Lan trên đất kanđihult trồng cây ăn quả, cây cà phê theo băng kết hợp với bón phân đã cho hiệu quả kinh tế cao và có tác dụng cải tạo và nâng cao độ phì của đất.
Quản lý đất bằng một số loại cây bản địa, trồng cải tạo đất bỏ hóa bằng các loại cây rừng có giá trị kinh tế (như cây tống quá sủ, cây phi lao, keo dậu, cây điền thanh, cây bồ đề, cọ Babassu, cây Bracatinga, cây Mimora Tenuiflora là cây rất phổ biến trên đất bỏ hóa ở Miền Nam Honduras và Trung Mỹ.
Quản lý đất bỏ hóa dựa vào cây bụi ở Philippines (cây benet – Mimosa invisa), một loại hình cây trinh nữ, được đưa vào trồng trên đất bỏ hóa từ những năm 1960 để làm cây cải tạo đất. Hệ thống quản lý đất bỏ hóa này có tác dụng cung cấp nguồn phân xanh,che phủ đất để tái sinh độ phì nhiêu cho đất, tăng hiệu quả sản xuất các loại cây lương thực ở chu kỳ sau (Edwin Balbarino, David M.Bates, Z.De la Rose, Julito Itumay, 1997). Cây cỏ lào, tre nứa ưu điểm của nó là sinh trưởng nhanh, phủ đất nhanh, nhờ đó thảm thực vật trên đất canh tác sau nương rẫy nhanh chóng được phục hổi, và đất dưới thảm tre nứa được coi là màu mỡ, thích hợp cho một chu kỳ canh tác mới.
Quản lý đất bỏ hóa dựa vào cây họ đậu như cây keo dậu, muông hoa đào (ở Naala, Naga, Cebu – Philipines) hai loài cây trên là giống địa phương. Ở Nigêria loài cây này được coi là cây có khả năng rút ngắn thời gian bỏ hóa xuống và có thể thâm canh và phát triển ổn định trên đất nương rẫy. Làm giàu đất canh tác sau nương rẫy ở Peruvian Amazon đặc điểm chung của các hệ thống cây trồng trên đất này là khi chặt cây - đốt rẫy các loại cây có giá trị kinh tế được chọn để lại hoặc được trồng xen với các loại cây lương thực trong thời gian canh tác nhằm mục đích làm giàu nương bỏ hóa sau khi kết thúc chu kỳ canh tác.
Một số chương trình khoa học của Liên hợp quốc đang cho ứng dụng một chế độ canh tác hợp lý trên đất dốc theo hệ thống nông lâm kết hợp. Theo hướng này việc trồng cây rừng, cây nông nghiệp (hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả) và phát trỉên chăn nuôi trên cùng một mảnh đất dốc phù hợp với điều kiện sinh thái và cho hiệu quả kinh tế cao rất được chú trọng.
Ngày nay, mạng lưới nghiên cứu HTCT đã thu hút nhiều quốc gia trồng lúa như Banglader, Miến điện, Ấn độ, Indonesia, Malaisia, Nepan, Philippin, Triều tiên, Srilanca, Thailan, Việt Nam tham gia nghiên cứu. Hệ thống canh tác là một tổ hợp cây trồng trong không gian và thời gian của 1 vùng khí hậu, thổ nhưỡng đặc thù, trong một điều kiện kinh tế xã hội nhất định [18].
2.2.2. Ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học trong nước đã không ngừng nghiên cứu, áp dụng các hệ thống đã được nghiên cứu ở nước ngoài nhằm tìm ra các hệ thống phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, điều kiện tự nhiên từng vùng của nước ta. Sử dụng tốt các nguồn lợi và các mối quan hệ của sinh thái với hiệu quả đầu tư là cao nhất nhằm phát triển sản xuất của HTCT vùng đất trũng, HTCT vùng ven biển, HTCT vùng đồi gò, vùng núi cao.
Theo quan điểm hệ thống thì hệ thống nông nghiệp Việt Nam có các hệ phụ: Trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và ngành nghề, hệ phụ VAC (Đào Thế Tuấn, 1987) [8]
Người ta đã nhận thức được rằng vấn đề phát triển nông nghiệp trong tương lai cần có kế hoạch lâu dài, kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo thực sự tính bền vững và phát triển [9]. Cần tiến tới một chế độ canh tác hợp lý trên đất dốc nương rẫy ở vùng đồi núi Việt Nam vì hoạt động của con người khai thác tài nguyên thiên nhiên mà thảm thực vật ngày càng bị thu hẹp nhanh, độ che phủ của mặt đất bằng cây rừng, cây trồng ngày càng giảm sút, đất trống đồi trọc ngày càng xuất hiện nhiều, đất đai bị xói mòn và rửa trôi nghiêm trọng [11].
Ở Việt Nam sử dụng đất dốc theo phương thức NLKH là một giải pháp đúng đắn trong điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội. Bộ Lâm nghiệp cũng đã tổng kết các mô hình nông lâm kết hợp được sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như FAO, SIDA, ESCAP, ICRAP, PAM...cũng có giá trị đáng kể [14].
Trong việc phục hồi độ phì của đất nhờ cây phân xanh và cây họ đậu được nhiều tác giả chú ý. Theo Lương Đức Loan (1992) cây phân xanh và cây họ đậu ăn hạt trồng trên đất Bazan thoái hóa sẽ nhanh chóng tạo ra một sinh khói hữu cơ lớn có chất lượng cao làm nguồn năng lượng cải tạo đất, có khả năng điều hòa nhiệt độ, ẩm độ, tăng khả năng hấp thụ cation, tăng lượng lân dễ tiêu, rút ngắn thời gian phục hồi ít nhất là từ 10 - 15 năm so với bỏ hóa tự nhiên, phục hồi theo phương thức này sau 1 - 3 năm có thể đưa vào sản xuất được.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đậu và các cộng sự về HTCT NLN ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam cho thấy hiệu quả các mô hình canh tác trên đất dốc như sau: Mô hình canh tác cây lương thực Sắn xen đậu đỗ, lạc với các cây phân xanh chống xói mòn trên các loại đất phát triển trên sa thạch, phiến thạch sét và phù sa cổ cho thấy đó là biện pháp giải quyết phân bón tại chỗ có hiệu quả cao để thâm canh tăng năng suất Sắn trên đất dốc [4].
Tác giả Nguyễn Văn Trương cho rằng cơ cấu cây trồng được chọn vào mô hình nông lâm kết hợp như sau:
+ Cây phòng hộ: Muồng đen, keo dậu, so đũa, phi lao, keo lá tràm…
+ Cây dài ngày: Chè, cà phê, hồ tiêu, cây ăn quả…
+ Cây ngắn ngày: Lúa, ngô, lúa nương, cây có củ, đậu đỗ…
Có thể sắp xếp không gian cho cây rừng, cây công nghiệp và cây ngắn ngày như sau:
+ Đất dốc từ 250 – 300 thì tốt nhất là nên để rừng che phủ, rừng cây rậm kín, hỗn giao nhiều tầng, nhiều cây cỏ trong đó phải có những cây gỗ lớn với số lượng đông đủ sẽ là chủ thể trong hệ sinh thái rừng và đất dốc.
+ Đất dốc từ 150 - 200 ta có thể tạo ra quần xã thực vật theo kiểu rừng với tỷ lệ cây to