Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội môi trường của dự án mở rộng khai thác mỏ than Núi Béo

Trong mấy năm gần đây, kinh tế Việt Nam luôn có sự tăng trưởng cao và đi kèm với nó là nền kinh tế nước ta luôn trong tình trạng thiếu nguyên liệu trầm trọng. Chính vì thế việc đảm bảo nguồn năng lượng cho nền kinh tế đang là một vấn đề nan giải đối với nước ta. Để đảm bảo nguồn năng lượng cho nền kinh tế đang là một vấn đề nan giải đối với nước ta.

docx56 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội môi trường của dự án mở rộng khai thác mỏ than Núi Béo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong mấy năm gần đây, kinh tế Việt Nam luôn có sự tăng trưởng cao và đi kèm với nó là nền kinh tế nước ta luôn trong tình trạng thiếu nguyên liệu trầm trọng. Chính vì thế việc đảm bảo nguồn năng lượng cho nền kinh tế đang là một vấn đề nan giải đối với nước ta. Để đảm bảo nguồn năng lượng cho nền kinh tế đang là một vấn đề nan giải đối với nước ta. Để đảm bảo việc cung cấp năng lượng cho nền kinh tế, việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện mới đã được đặt ra, song để duy trì sự tồn tại và phát triển đó thì yêu cầu ngành than cần có sự đầu tư và mở rộng sản xuất. Mỏ Núi Béo là một mỏ lớn thuộc tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam, hàng năm mỏ khai thác một sản lượng than lớn lên tới gần 1,5 triệu tấn và sản lượng này đã gần đạt công suất thiết kế của mỏ là 1,5 triệu. Mặt khác tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đang thúc tiến dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện có công suất 600MW. Do đó để đáp ứng nhu cầu trong nước việc mở rộng sản xuất là một nhu cầu tất yếu và cấp thiết cần được thực thi. Tuy nhiên việc mở rộng mỏ này cần có sự tính toán cẩn thận vì khai thác than là một hoạt động có tác động lớn đến môi trường, cũng như đến đời sống kinh tế - xã hội. Do đó để đảm bảo sự hoạt động và tránh các tác động xấu đến môi trường khi mở rộng khai thác thúc đẩy em thực hiện đề tài "Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội môi trường của dự án mở rộng khai thác mỏ than Núi Béo". Quá trình nghiên cứu một số câu hỏi được đặt ra: - Việc mở rộng này có đạt hiệu quả kinh tế xã hội? - Việc mở rộng khai thác này có tác động đến môi trường như thế nào: + Nước + Không khí + Tiếng ồn + Đất - Các phương pháp khắc phục. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: 1. Phương pháp nghiên cứu, khảo sát thực địa - Tổng hợp dữ liệu khí tượng, thuỷ văn, địa chất, địa chất thuỷ văn, động thực vật… trong khu vực khai thác mỏ và khu vực cần đánh giá. - Công tác khảo sát thực địa bao gồm xác định những nguồn gây ô nhiễm chủ yếu và thứ yếu do khai thác mở gây tác động đến môi trường. - Thu thập các tài liệu quan trắc môi trường đã thực hiện tại khu vực. - Quan trắc đo đạc bổ sung một số chỉ tiêu đặc trưng đối với chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt, nước ngầm và môi trường không khí… - Điều tra xã hội học để phân tích những tác động tích cực và tiêu cực đến cộng đồng dân cư khu vực xung quanh. 2. Phân tích, tổng hợp và dự báo thông tin Dựa trên các tài liệu tổng hợp về hiện trạng môi trường khu vực hiện tại và những ảnh hưởng của việc khai thác than đến môi trường xung quanh, từ đó phân tích tổng hợp và đưa ra những dự báo thông qua một số tài liệu có sẵn của Tập đoàn Than cũng như của riêng mỏ than Núi Béo. 3. Phương pháp so sánh Phương pháp này được sử dụng để đánh giá mức độ tác động, mức độ ảnh hưởng của dự án dựa theo TCVN 1995 và một số tiêu chuẩn ISO 14000. 4. Phương pháp phân tích chi phí lợi ích mở rộng Dùng để đánh giá hiệu quả sản xuất khi tính tới các lợi ích và chi phí về môi trường. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THAN VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC KHAI THÁC THAN ĐẾN MÔI TRƯỜNG I. TỔNG QUAN VỀ KHAI THÁC THAN Ở QUẢNG NINH Quảng Ninh có trữ lượng than lớn nhất nước ta, nếu tính ở độ sâu trữ lượng ước tính khoảng 3,5 tỷ tấn, cho phép khai thác khoảng 30-40 triệu tấn/năm và khai thác trên 100 năm nữa. Từ năm 1961 đến nay đã khai thác trên 260 triệu tấn. Năm 2003, tiêu thụ 16 triệu tấn, năm 2004 sản xuất 25,9 triệu tấn, năm 2005 sản xuất 30 triệu tấn. Trong đó chủ yếu là khai thác lộ thiên chiếm tới hơn 70%. Vỉa than QN được phân bố ở sườn dãy núi phía Bắc đường 18A. Có chiều dài trên 150km, chiều rộng khoảng 15km, trên địa bàn các huyện từ Đông Triều - Uông Bí, Hòn Gai, Cẩm Phả- Cái Bầu, sườn núi khá dốc. Địa hình phân cắt sâu khá mạnh, tạo lên hệ thống sông suối ngắn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động khai thác than, đặc biệt vào mùa mưa. Có thể nói hoạt động khai thác thai tác động môi trường trên nhiều phương diện, gồm cả các tác động trực tiếp lẫn gián tiếp. Việc khai thác than có tác động chủ yếu đến môi trường từ các hoạt động như san gạt, nổ mìn, khai thác, vận chuyển than, sàng tuyển than. Phương pháp sử dụng chủ yếu. Phương pháp chủ yếu dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án mở rộng khai thác mỏ than Núi Béo là phương pháp CBA. II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC THÀNH PHỐ HẠ LONG CÓ LIÊN QUAN TỚI KHU VỰC NÚI BÉO Mỏ than Núi Béo thuộc địa bàn thành phố Hạ Long, nằm trong khu vực khai thác mỏ của thành phố thuộc địa bàn phường Hà Lầm, Hà Tu, Hà Trung và đường vận chuyển ra cảng, cảng tiêu thụ thuộc địa phần phường Hồng Hà. 1. Điều kiện tự nhiên thành phố Hạ Long Vị trí địa lý: Thành phố Hạ Long có toạ độ địa lý: từ 20005' vĩ độ Bắc, từ 106050 đến 107030 kinh độ Đông. Phía Bắc - Tây Bắc giáp huyện Hoành Bồ, phía Nam thông gia biển giáp vịnh Hạ Long và thành phố Hải Phòng; phía Đông - Đông Bắc giáp thị xã Cẩm Phả, phía Tây - Tây Nam giáp huyện Yên Hưng. Theo báo cáo thống kê đất đai năm 2003 của UBND thành phố Hạ Long, diện tích đất là 22.250,0. Có quốc lộ 18A chạy qua, có cảng biển, có bờ biển dài 50km, có vịnh Hạ Long hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Vị trí địa lý của thành phố Hạ Long có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội. Với lợi thế về đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và cảng biển, đặc biệt cảng Nam Cầu Trắng và cảng nước sâu Cái Lân cho phép thành phố giao lưu quan hệ thương mại với nhiều nước trên thế giới và các huyện, tỉnh, thành phố trong toàn quốc. Địa hình, địa mạo: Hạ Long là thành phố ven biển vịnh Bắc Bộ, có địa hình đa dạng và phức tạp, là một khu vực hình thành cổ nhất trên lãnh thổ Bắc Việt Nam gồm cả đồi núi, thung lũng, vùng ven biển và hải đảo, được chia thành 3 vùng rõ rệt như sau: Vùng đồi núi: Đây là cánh cung bao bọc toàn bộ phía Bắc và Đông Bắc (phía Bắc quốc lộ 18A) chiếm 70% diện tích đất thành phố, gồm các dải đồi cao trung bình từ 150-250m, ngọn núi cao nhất 504m, chạy dài từ Yên Lập đến Hà Tu, thấp dần về phía biển, độ dốc trung bình từ 15-20% xen giữa đồi núi là những thung lũng nhỏ, hẹp. Vùng khai thác than của Công ty than Núi Béo nằm trong khu vực này. 2. Hiện trạng môi trường thành phố Hạ Long Trên địa bàn thành phố các hệ thống xử lý nước thải, chất thải trong khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch tuy được quan tâm nhưng vẫn chưa hoàn thiện và đồng bộ, các khu vực khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất vẫn chưa có giải pháp bảo vệ môi trường hợp lý, thường gây ô nhiễm không khí, đất đai, nguồn nước, môi trường biển… Cụ thể qua kết quả nghiên cứu về ô nhiễm bụi ở thành phố cho thấy: Bụi lắng tại phường Hồng Hà là 0,01mg/m3. Bụi lắng tại nội thị thành phố Hạ Long (phường Bạch Đằng 0,18mg/m3. Tại các khu vực có hoạt động san lấp mặt bằng và vận chuyển than nồng độ bụi lắng tới 0,04 - 0,08mg/m3. Tiêu chuẩn cho phép có nồng độ giới hạn là 0,03mg/m3. Chất lượng môi trường vùng vịnh Hạ Long: Ô nhiễm về hữu cơ: còn trong giới hạn cho phép Ô nhiễm Hyđrô các bua dầu: khi có tầu chở dầu 1 vạn tấn, các xà lan đến lấy dầu, vịnh Hạ Long bị ô nhiễm nặng, gấp 3 lần đối với môi trường du lịch. (Giới hạn cho phép về dầu mỏ trong nước biển qui định: môi trường thuỷ sản là 0,05 mg/lít, môi trường du lịch là 0,3mg/lít). Ô nhiễm kim loại nặng trong nước biển tại cảng dầu Cửa Lục ở mức báo động. Ô nhiễm kẽm trong nước biển tại cảng dầu phà Bãi Cháy, cảng Hòn Gai đều cao hơn giới hạn cho phép từ 2,8 - 3,7 lần. 3. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội Tăng trưởng kinh tế: Kinh tế có bước phát triển khá toàn diện và vững chắc, tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 12,6%/năm, lĩnh vực du lịch tăng bình quân 12,9%/năm, ngành nông nghiệp tăng bình quân 4,2%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2003 đạt 1.068,3USD gấp 2,1 lần so với bình quân chung của cả nước. 4. Điều kiện kinh tế - xã hội khu vực thực hiện dự án Dự án được thực hiện có liên quan tới địa phận của 3 phường: phường Hồng Hà, Hà Tu, Hà Trung. Điều kiện kinh tế - xã hội phường Hồng Hà Đường vận chuyển than, khu vực cảng và nhà máy cơ khí nằm trong địa phận phường Hồng Hà. Việc vận chuyển than ra cảng. Đây là một trong những phương chính của thành phố Hạ Long và có số dân khá đông. Trong năm 97 tổng số hộ dân của phường chỉ là 2.773 hộ gia đình nhưng hiệnnay chỉ riêng tổ 2A (khu dân cư gần bãi thải) đã lên đến 315 hộ gia đình. Toàn phường hiện nay có 11 khu và lượng dân mới chuyển đến khá đông, tổng số có 3400 hộ (trong đó có 22 hộ nghèo). Cơ cấu ngành nghề lao động của dân cư gồm: công nhân viên chức, công nhân mỏ, kinh doanh buôn bán nhỏ. Diện tích đất của phường 331,5ha trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp (44,4ha) và đất phi nông nghiệp. Tuyến đường giao thông chính của tỉnh Quảng Ninh chạy qua địa phận phường là đường 18A, các tuyến đường trong khu vực phường chủ yếu là đường rải xỉ (20%), bê tông (70%), đất (5%). Ngoài đường bộ trong địa phận phường còn có đường thuỷ nhưng chủ yếu là sử dụng để vận chuyển than. Điều kiện cơ sở hạ tầng phường Hồng Hà: Hệ thống nước sinh hoạt trong phường là nước máy. Hệ thống thoát nước thải và nước mặt của khu Hồng Hà có nhưng đã xuống cấp. Quanh khu vực nhà máy tuyển và bãi thải đều có mương thoát nước thải nhưng đều bị bùn làm giảm dòng chảy, khả năng tiêu thoát nước chậm. Rác thải sinh hoạt trong phường do Công ty vệ sinh môi trường Quảng Ninh thực hiện. Điều kiện kinh tế - xã hội phường Hà Tu Một phần khu vực khai thác Hồ Tu, vỉa 11 nằm trong địa phận phường Hà Tu. Đây là một trong những phương chính của thành phố Hạ Long và có diện tích đất 1536,3 ha, trong đó đất nông nghiệp là 1,18ha, đất công nghiệp là 82,68 ha. Là một phường có số dân khá đông. Trong năm 2003 tổng số hộ dân của phường là 2.949 hộ gia đình với số khẩu là 11.057 người. Cơ cấu ngành nghề lao động của dân cư gồm: công nhân viên chức, công nhân mỏ, kinh doanh buôn bán nhỏ. Số người làm việc trong các xí nghiệp tại địa phương khoảng 4000 người. Thu nhập bình quân của người dân là 400.000đồng/tháng (cao nhất là 4.000.000 đồng/tháng, thấp nhất là 100.000đồng/tháng), số hộ giầu và khá 500 hộ, số hộ nghèo có 05 hộ. Tuyến đường giao thông chính của tỉnh Quảng Ninh chạy qua địa phạn phường là đường 18A, các tuyến đường trong khu vực phường chủ yếu là đường bê tông chiếm 85%, đường cấp phối 5% và đường đất chiếm 10%. Ngoài đường bộ trong địa phương phường còn có đường sắt nhưng chủ yếu là sử dụng để vận chuyển than của mỏ than Hà Tu và Tân Lập. Điều kiện cơ sở hạ tầng phường Hà Tu: Trong khu vực phường có 02 trường học và 02 cơ quan, 01 chợ, 02 nghĩa trang, 01 đình chùa. Hệ thống nước sinh hoạt trong phường là nước máy. Hệ thống thoát nước thải và nước mặt của khu Hà Tu có nhưng đã xuống cấp. Trong khu vực có suối Hà Tu đã được xay kè hai bên bờ suối và nạo vét đá khơi thông dòng chảy, khả năng tiêu thoát nước nhanh. Rác thải sinh hoạt trong phường do Công ty vệ sinh mô trường thực hiện. Điều kiện kinh tế - xã hội phường Hà Trung Một phần khu vực khai thác nằm trong địa phận phường Hà Trung. Một bộ phận dân cư nằm cách bãi thải và khu vực khai thác 500m. Đây là một phường của thành phố Hạ Long và có diện tích đất 7,50ha, trong đó đất nông nghiệp là 1,18ha, đất công nghiệp là 3,5ha. Là một phường có số dân khá đông. Trong năm 2003 tổng số hộ dân của phường là 1.669 hộ gia đình với số khẩu là 7.280 người. Cơ cấu ngành nghề lao động của dân cư gồm: công nhân viên chức, công nhân mỏ, kinh doanh buôn bán nhỏ. Số người làm việc trong các xí nghiệp tại địa phương khoảng 1.500 người. Thu nhập bình quan của người dân là 400.000 đồng/tháng (cao nhất 3.500.000 đồng/tháng, thấp nhất là 100.000 đồng/tháng), số hộ giàu và khá 300 hộ, số hộ nghèo có 42 hộ. Tuyến đường giao thông của tỉnh Quảng Ninh chạy qua địa phận phường là đường 18B, các tuyến đường trong khu vực phường chủ yếu là đường bê tông chiếm 75% và đường đất chiếm 25%. Điều kiện cơ sở hạ tầng phường Hà Trung: Trong khu vực phường có 02 trường học và 03 cơ quan, 01 chợ. Hệ thống nước sinh hoạt trong phường là nước giếng, dân sử dụng nước máy chỉ chiếm 25%. Hệ thống thoát nước thải và nước mặt của khu Hà Trung có nhưng đã xuống cấp. Trong khu vực có suối nước Hà Trung - Hà Lầm đã được xây kè hai bên bờ suối và nạo vét đá khơi thông dòng chảy, khả năng tiêu thoát nước nhanh. Rác thải sinh hoạt do Công ty vệ sinh môi trường Hạ Long thực hiện. 5. Tình hình sản xuất kinh doanh cũng như cơ sở vật chất hạ tầng mỏ than Núi Béo Là một mỏ than lộ thiên lớn của Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam, nằm ở phía Đông - Đông Bắc thành phố Hạ Long. Mỏ cách trung tâm thành phố Hạ Long trên 10 km về phía Đông. Theo báo cáo sản xuất kinh doanh của mỏ than Núi Béo năm 2005: Sản lượng khai thác đạt trên 1,5 triệu tấn than, khối lượng tiêu thụ đạt 1,117 triệu tấn, doanh thu đạt 254,871 tỷ đồng. Công ty có 2333 công nhân, cùng hệ thống mặt bằng văn phòng nhà xưởng rộng lớn. 6. Định hướng khai thác mở rộng Mỏ than Núi Béo với quá trình khai thác và sản xuất lâu dài, công suất hiện nay đã gần đạt đến mức thiết kế. Ngoài ra đáp ứng các nhu cầu sản xuất và tiêu thụ than trong nước ngày càng cao. Việc mở rộng sản xuất là một quá trình tất yếu. Công suất của phần mở rộng được xác định phù hợp với "tổng sơ đồ phát triển ngành than giai đoạn 2001-2010 có xét triển vọng đến 2020" của Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam. Công suất tối đa của mỏ than Núi Béo là 2 triệu tấn than/năm tương ứng khối lượng đất đá bóc tối đa là 12 ¸ 14 triệu m3/năm. Việc mở rộng khai thác tại công trường vỉa 14 và vỉa 11. Dự kiến khai thác lộ thiên. Tổng khối lượng sản lượng khai thác của 2 vỉa này khoảng 600.000 tấn/năm tương ứng với khối lượng đất đá bóc tách khoảng 7,2-8,4 triệu tấn đất dá. Việc thực hiện khai thác kéo dài trong 10 năm tạo công ăn việc làm cho 1000 lao động. Để thực hiện dự án, mỏ than Núi Béo cần đầu tư các nguồn vốn tài sản hiện có của công ty và một phần khác vay của ngân hàng đầu tư phát triển với mức lãi suất là 5,4%/năm. CHƯƠNG II HIỆN TRẠNG MỎ THAN NÚI BÉO VÀ KHU VỰC MỞ RỘNG KHAI THÁC THAN I. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN KHU MỎ 1. Vị trí địa lý Khai trường mở rộng mỏ than Núi Béo được nghiên cứu thiết kế nằm trong khu vực có giới hạn toạ dộ: X = 18 600 - 20 400; Y = 408.800 - 411.400 Khai trường mỏ than Núi Béo nằm cách trung tâm thành phố Hạ Long 7km về phía Đông. Phía Tây giáp khu Bình Minh. Phía Đông tiếp với khu mỏ Tân Lập. Phía Bắc giáp khu mỏ Hà Tu. Phía Nam giáp quốc lộ 18A. 2. Địa hình: Tại công trường vỉa 14, địa hình thấp nhất hiện tại mức -36 tại lộ vỉa phía Đông. Tại công trường vỉa 11 địa hình thấp nhất hiện tại mức -36 tại lộ vỉa phía Tây. Đỉnh cao nhất tại địa hình khu vực có độ cao +150m ở phía Bắc. Phần lớn địa hình khu mỏ không còn nguyên thuỷ mà đã bị khai thác ở các khu vực, địa hình bị cắt bởi các tầng khai thác của các công trường khai thác lộ thiên vỉa 11 và 14. Phần khai thác mở rộng sang phía hồ Hà Tu, hồ này nằm ở sát phía Đông khai trường vỉa 11. 3. Sông suối Trong khu vực có hai con suối, về mùa cạn lưu lượng nước nhỏ. Suối Hà Lầm chảy về phía Tây và suối Hà Tu chảy về phía Đông, lòng suối phẳng, rộng từ 1-4m. Đến nay do việc khai thác than nên lưu lượng suối hoàn toàn phụ thuộc vào quá trình thoát và thải nước nhỏ. Địa hình khu mỏ bị chia cắt bởi các dải bồi liên tiếp tạo nên nhiều khe cạn quanh năm, các khe cạn chỉ có nước vào mùa mưa. Trong khu vực mỏ than Núi Béo cũng như khu vực mở rộng sản xuất của công ty không có sông suối chảy qua. 4. Khí hậu khu mỏ · Các yếu tố khí tượng: Mỏ than Núi Béo nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Các yếu tố khí tượng ảnh hưởng tác động trực tiếp đến khai thác mỏ. Trong năm khí hậu phân thành 2 mùa rõ rệt: Mùa khô và mùa mưa. Các yếu tố về khí tượng của khu vực dự án đo được tại các trạm quan trắc khí tượng ở Hòn Gai, Cẩm Phả và Cửa Ông được thể hiện như sau: - Mưa mưa: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm. Vào mùa mưa khí hậu thường nắng nóng, mưa rào đột ngột và chịu ảnh hưởng của các cơn bão từ biển Đông kéo vào. Lượng mưa thay đổi từ 1.250-2.850mm, tập trung vào tháng 6 đến tháng 9. Thời kỳ này có đợt mưa kéo dài từ 3-4 ngày với lượng tổng cộng 400-500mm. - Lượng mưa nhỏ nhất trong tháng tại các trạm Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông. - Lượng mưa trung bình trong tháng tại trạm Hòn Gai: 536,4mm - Lượng mưa lớn nhất trong tháng tại trạm Hòn Gai: 1.257mm - Lượng mưa nhỏ nhất trong năm tại trạm Hòn Gai: 1.027mm Hướng gió Nam và Đông Nam, không khí ẩm ướt, độ ẩm cao, độ ẩm trung bình từ 60-80%. Nhiệt độ trung bình thay đổi từ 250C - 300C, có những ngày nhiệt độ lên tới 350C - 370C. - Mùa khô Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Hướng gió Bắc và Tây Bắc, không khí khô ráo, độ ẩm nhỏ, độ ẩm trung bình từ 30% - 40%. Nhiệt độ trung bình thay đổi từ 150C - 180C. Những ngày giá rét nhiệt độ có thể xuống tới 30C. Thời gian này thường có gió mùa Đông Bắc cùng với mưa phùn, giá rét và sương mù. Lượng mưa tối đa trong suốt mùa khô không quá 89mm. 5. Đặc điểm bãi thải mỏ hiện nay và hoạt động khai thác hiện nay liên quan đến khu vực mở rộng Các bãi thải mỏ đã hình thành theo thiết kế giai đoạn I, đổ thải tại bãi thải Bắc vỉa 11. Sau dó, các khu vực đổ thải cho toàn vùng đã được tính toán xác định lại khả năng đổ thải và phương án đổ thải đã được xác định trong qui hoạch khai thác - vận tải - thoát nước cụm mỏ lộ thiên vùng Hòn Gai lập tháng 12 năm 1999. Công tác đổ thải của dự án khai thác cải tạo mở rộng sản xuất được thiết kế đổ thải trên cơ sở qui hoạch này, việc sử dụng đổ thải vào khu vực công ty than Hà Lầm đã khai thác xong là điều kiện thuận lợi cho công tác mở rộng sản xuất của Công ty. Hoạt động khai thác hiện nay đã và đang mở rộng sản xuất của Công ty. Hoạt động khai thác hiện nay đã và đang mở rộng khai trường vỉa 11 về phía hồ Hà Tu và khai trường vỉa 14 về phía vỉa 14 Tay phay K thuộc Công ty than Hà Lầm. II. TÀI NGUYÊN ĐẤT RỪNG, SINH VẬT TRONG RANH GIỚI KHU MỎ 1. Tài nguyên đất Toàn bộ mỏ than Núi Béo được nghiên cứu thiết kế mở rộng nằm trong khu vực có diện tích khai trường rộng 650 ha. 2. Tài nguyên rừng, sinh vật Hiên nay, nguồn tài nguyên rừng và hệ sinh thái ở khu vực mỏ rất nghèo nàn, cây cối thưa thớt, ít có giá trị, không có thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm thuộc nhóm I và nhóm II theo nghị định số 18/HĐBT ngày 17 tháng 01 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng do việc khai thác tại đây đã được thực hiện từ thời Pháp thuộc. Khu vực khai trường của Mỏ than Núi Béo là vùng núi cao trung bình, có độ dốc địa hình lớn. Trong phạm vi diện tích mỏ được cấp, phần đất phủ trong ranh giới mỏ rất nghèo, phần lớn đất trong ranh giới mỏ chủ yếu là đồi trọc. Các loại cây cối ở đây thường là bụi cây nhỏ, dây leo thưa thớt, ít có giá trị sử dụng. Trong diện tích đất do mỏ quản lý chỉ có một số loài cây: Mua lông, me rừng, chổi xể, cỏ tranh, lách, sậy khô, sim… Nhìn chung đất chỉ thích hợpvới các cây trồng chủ yếu là bạch đàn, keo tai tượng (hiện trong khu vực đã trồng 8,5ha bạch đàn, keo tai tượng…) Tóm lại đất đai ở khu vực các khai trường có độ dinh dưỡng thấp, không thích hợp để canh tác và trồng rừng, cây ăn quả. Khai thác tài nguyên khoáng sản mang lại lợi ích về thu nhập quốc dân và mang lại việc làm cho người lao động, nhưng phát triển ngành công nghiệp khai khoáng cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khoẻ con người. Có nhiều cách phân loại tác động của khai thác tài nguyên khoáng sản đến môi trường tự nhiên. Hợp lý hơn cả là xếp loại theo từng yếu tố của môi trường sinh thái, các yếu tố đó bao gồm: Nước (gồm nước ngầm, nước mặt); Không khí; Đất đai thổ nhưỡng, lớp đất phủ, diện tích đất nông nghiệp và đất, chất lượng đất. Thực vật và động vật. Bước đầu tiên trong việc đánh giá những tác động của khai thác tài nguyên khoáng sản đến môi trường là cần xác định rõ và phân loại thành tác động tích cực và tác động tiêu cực. Việc xác định nguyên nhân gây tác hại đến môi trường và đề xuất giải pháp khắc phục là vấn đề của khoa học công nghệ, các giải pháp lựa chọn phải khả thi và kinh tế. Nhưng việc đánh giá tác động của chúng đến môi trường không chỉ là vấn đề khoa học công nghệ mà còn là vấn đề kinh tế xã hội. Công