Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới. Với môi trường cạnh tranh gay gắt như thế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đổi mới mình mới có thể tồn tại được. Trong xu thế người người hội nhập, nhà nhà hội nhập đó thì các Ngân hàng thương mại cũng phải nâng cao chất lượng phục vụ thì mới có khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài.
62 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hoạt động kinh doanh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia không ngừng phấn đấu để đưa đất nước mình phát triển đi lên, tuy nhiên mỗi quốc gia đều có điểm xuất phát không giống nhau.
Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới. Với môi trường cạnh tranh gay gắt như thế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự đổi mới mình mới có thể tồn tại được. Trong xu thế người người hội nhập, nhà nhà hội nhập đó thì các Ngân hàng thương mại cũng phải nâng cao chất lượng phục vụ thì mới có khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài.
Trong xu thế hội nhập đó, Kiên Giang luôn chuyển mình để hoà vào dòng chảy của sự phát triển đất nước. Kiên Giang là tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp và hải sản Ủy Ban Nhân Dân tỉnh cũng như huyện Châu Thành quan tâm sâu sắc, thực tế vốn tự có dùng cho sản xuất của người dân còn hạn chế. Do đó cần có nguồn vốn, chính là nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp. Thông qua hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT huyện Châu Thành đã đưa số vốn nhất định và cần thiết để người dân đảm bảo cho sản xuất đạt hiệu quả, NHNo & PTNT Chi Nhánh Huyện Châu Thành đã và đang cố gắng đạt yêu cầu phát triển kinh tế của huyện nhà, huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư làm nhịp cầu điều hòa vốn từ nơi “thừa” đến “thiếu” trở thành trung tâm tiền tệ lớn cả về số lượng lẫn chất lượng để huy động triệt để nguồn vốn trong dân cư và sử dụng vốn huy động để cho vay đạt hiệu quả đó là vấn đề mà cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng quan tâm.
Là người con của đất , em muốn tỉnh nhà ngày càng phát triển hơn, đời sống nhân dân ngày càng no ấm hơn. Với thế mạnh là nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, cùng với những kiến thức chuyên ngành đã học, em mong muốn rằng chúng ta không chỉ đẩy mạnh sản lượng xuất khẩu thủy sản ngày càng cao mà làm sao để sản phẩm của chúng ta có được thương hiệu trên thế giới. Muốn làm được điều đó thì các doanh nghiệp phải đẩy mạnh chiến lược Marketing, đầu tư trang thiết bị hiện đại.Vì thế, NHNo&PTNT có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế của huyện nhà.
Để đáp ứng được những yêu cầu trên thì Ngân hàng phải đứng vững và phát triển, muốn vậy thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phải có hiệu quả. Việc đánh giá hoạt động kinh doanh của Ngân hàng qua từng giai đoạn là hết sức cần thiết. Thông qua đó Ngân hàng có thể xác định được điểm mạnh, điểm yếu của mình, rút ra kinh nghiệm và đề ra phương hướng hoạt động tốt cho thời kỳ tới.Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI NHNo&PTNT CHI NHÁNH HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH KIÊN GIANG” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Mục tiêu chung: Đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT Chi Nhánh huyện Châu Thành từ đó tìm ra những hạn chế, phát huy những ưu điểm, để mang lại hiệu quả tối ưu trong hiện tại và trong thời gian sắp tới.
Mục tiêu cụ thể: Phân tích tình hình huy động vốn, cho vay, dư nợ, nợ quá hạn…tại NHNo&PTNT Chi Nhánh huyện Châu Thành qua 3 năm, để đánh giá được hiệu quả hoạt động của nó trong thời gian qua. Từ đó mà ta đưa ra các giải pháp hữu hiệu để Ngân hàng ngày càng thịnh vượng, luôn là người bạn đồng hành của người dân và doanh nghiệp trong huyện Châu Thành.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Không gian: Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi Nhánh huyện Châu Thành.
Thời gian: Đề tài này được nghiên cứu trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi Nhánh huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang với số liệu 3 năm (2007-2009).
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính là tình hình huy động vốn, hoạt động tín dụng… tại NHNo&PTNT Chi Nhánh huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp thu nhập số liệu:
Số liệu được thu thập từ tư liệu cơ quan thực tập, lấy từ các bản báo cáo tổng kết báo cáo tháng , năm của phòng kinh doanh . Tình hình thực tế tại hộ sản xuất và các tư liệu khác ở cơ quan tham khảo ý kiến của người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ tín dụng, kế toán và kiểm toán tại Ngân hàng.
Phương pháp phân tích số liệu:
Thống kê, so sánh số liệu giữa các năm, các chỉ tiêu giữ các thời kỳ và phân tích trên cơ sở kiến thức đã học.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1.1.1. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Ngân hàng Thương mại được xem như một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, với chức năng trung gian tín dụng, các Ngân hàng thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho vay, từ đó nghiệp vụ hoạt động chủ yếu của Ngân hàng bao gồm 3 lĩnh vực: huy động vốn, cho vay, môi giới trung gian…
1.1.1.1. Hoạt động huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Vì vậy, nếu huy động được nhiều vốn thì có thể mang lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng cũng như có thể mở rộng hoạt động và cung cấp vốn cho hoạt động kinh tế.
Trên thị trường có rất nhiều loại khách hàng khác nhau, trong đó gồm có hai loại chính:
+ Khách hàng là cá nhân.
+ Khách hàng là tổ chức kinh tế như: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân…
Vì thế, các hình thức huy động vốn cũng rất đa dạng để thích hợp với từng loại khách hàng. Hiện nay, tại các NHTM các nước có thể có những hình thức huy động vốn như sau:
a)Vốn tiền gửi:
* Tiền gửi thanh toán:
Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà cũng không cần báo trước cho Ngân hàng nhằm đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng.
Mục đích của loại tiền gửi này nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, tiện lợi trong việc thanh toán bằng tiền mặt. Đối với Ngân hàng loại tiền gửi thanh toán thường được sự giao động lớn, do đó Ngân hàng chỉ áp dụng một tỉ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường áp dụng với lãi suất thấp.
* Tiền gửi tiết kiệm:
Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú được chia ra làm nhiều loại:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Là loại tiền gửi không có thời gian đáo hạn, khi nào người gửi muốn rút tiền thì phải thông báo cho Ngân hàng một thời gian, tuy nhiên ngày nay Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền ra không cần thông báo trước. Đây là hình thức gửi tiền mà đối tượng chủ yếu là người tiết kiệm, dành dụm hầu trang trải những chỉ tiêu cần thiết, đồng thời có một khoản lãi góp phần vào việc chi tiêu hàng tháng. Ngoài ra, đối tượng gửi tiền có thể những người thừa tiền nhàn rỗi muốn gửi vào Ngân hàng để thu lợi tức đồng thời đảm bảo an toàn hơn khi tiền để ở nhà.
Loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp do Ngân hàng không chủ động được nguồn vốn và lãi luôn được nhập vốn và thường tính lãi theo nhóm ngày gửi tiền. Còn đối với tiền gửi thanh toán thì lãi nhập gốc vào cuối tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng gửi tiền vào có sự thỏa thuận về thời hạn rút ra giữa Ngân hàng và khách hàng.
Về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thực tế do yếu tố cạnh tranh, để thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn nhưng không được hưởng lãi suất hoặc chỉ được hưởng một mức lãi suất thấp hơn hoặc phải chịu một mức phí đối với khoản tiền gửi tiết kiệm rút trước thời hạn theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm (theo quy định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13 tháng 8 năm 2004).
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn mang tính ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng loại tiền này một cách chủ động làm nguồn vốn kinh doanh.Vì vậy, để khuyến khích khánh hàng gửi tiền, các NHTM thường đưa ra nhiều kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền của khách hàng. Thông thường có các loại kỳ hạn như: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng…với mỗi loại kỳ hạn Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao.
b) Huy động vốn thông qua giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa tổ chức tín dụng và người mua.
- Ngân hàng phát hành những giấy tờ có giá như: kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi … để huy động vốn ngắn hạn và dài hạn vào Ngân hàng.
c) Nguồn vốn đi vay các Ngân hàng khác:
Trong quá trình kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có lúc phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, và ngược lại cũng phát sinh tình trạng tạm thời thiếu vốn. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng không trách khỏi tình trạng đó. Đối với Ngân hàng, cũng có lúc Ngân hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự, có thời điểm nhu cầu cho vay vốn lớn, nhưng khả năng nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được lại không đáp ứng đầy đủ. Ngân hàng có thể đi vay các Ngân hàng khác nếu có phát sinh tình trạng thiếu vốn để nhằm khôi phục khả năng thanh toán.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng:
* Khái niệm tín dụng: Đối với NHTM, thì tín dụng có nghĩa là sự cho vay hay ứng trước tiền do Ngân hàng thực hiện, giá cả do Ngân hàng ấn định đối với khách hàng đi vay mà chúng ta thường gọi là lãi suất hay những khoản tiền hoa hồng người vay phải trả trong suốt thời gian sử dụng các khoản ứng trước của Ngân hàng.
* Phân loại tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, thì hiện nay có rất nhiều hình thức tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng như cho vay đối với doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất…Tín dụng được phân ra làm hai loại: tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn.
+ Tín dụng ngắn hạn: Là những khoản cho vay có thời hạn tối đa là 12 tháng. Trong nền kinh tế thị trường, NHTM có thể cho khách hàng vay ngắn hạn nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu hụt của khách hàng hoặc cho vay để tiêu dùng.
+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này cấp cho khách hàng cần vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, xây dựng các công trình có quy mô nhỏ.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời gian cho vay trên 5 năm nằm trong kế hoạch của Nhà nước. Loại tín dụng này cho vay để đầu tư cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất đối với công trình có quy mô lớn. Loại này có nhiều rủi ro nên chiếm một tỉ lệ rất ít.
1.1.1.3. Thu nhập- Chi phí -Lợi nhuận:
a) Thu nhập:
- Khái niệm: Thu nhập Ngân hàng là khoản tiền thu được từ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng như: cho vay, đầu tư, cung cấp dịch vụ…
- Các khoản thu nhập của Ngân hàng gồm:
+ Thu nhập từ hoạt động tín hoạt động tín dụng như: Thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay, thu từ đầu tư chúng khoán.
+ Thu nhập ngoài hoạt động tín hoạt động tín dụng như: Thu từ dịch vụ thanh toán, thu tư nghiệp vụ bảo lãnh, thu từ nghiệp vụ ngân quỹ, thu từ hoạt động dịch vụ khác, thu từ hoạt động kinh doanh khác, thu nhập khác.
b) Chi phí
- Khái niệm: Chi phí là toàn bộ tài sản, tiền bạc bỏ ra để thực hiện một quá trình kinh doanh của Ngân hàng.
- Các khoản chi phí của Ngân hàng gồm:
+ Chi phí từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng như: Trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay, trả lãi phát hành GTCG, chi phí khác.
+ Chi phí ngoài hoạt động tín dụng của Ngân hàng như: Chi cho dịch vụ thanh toán, chi về ngân quỹ, chi cho hoa hồng môi giới, chi cho nhân viên, chi phí khác.
c) Lợi nhuận của Ngân hàng:
- Khái niệm: Lợi nhuận của Ngân hàng cũng giống như lợi nhuận của doanh nghiệp đây là thu nhập sau khi đã trừ đi hết các khoản chi phí phục vụ cho việc thực hiện hoạt động kinh doanh.
Lợi nhuận của Ngân hàng là yếu tố quan trọng trong hoạt động Ngân hàng, vì nó giúp Ngân hàng có thể dễ dàng huy động vốn trong dân cư, cải tiến chiến lược phát triển…Lợi nhuận Ngân hàng còn khuyến khích nhà quản lý mở rộng và cải tiến công việc, giảm chi phí và gia tăng các loại dịch vụ.
Tóm lại: việc tạo ra lợi nhuận là điều cần thiết và quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng vì nó dể dàng huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế.
1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
1.2.1. Những thông tin cần biết
- Doanh số cho vay: Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà Ngân hàng cho khách hàng vay trong một thời gian nhất định bao gồm vốn đã thu hồi hay chưa thu hồi.
- Doanh số thu nợ: Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà Ngân hàng thu về được khi đáo hạn vào một thời điểm nhất định nào đó.
- Dư nợ: Là chỉ tiêu phản ánh số nợ mà Ngân hàng đã cho vay mà chưa thu được vào một thời điểm nhất định.
Để xác định được dư nợ, Ngân hàng sẽ so sánh giữa 2 chỉ tiêu doanh số cho vay và doanh số thu nợ.
- Nợ xấu:Là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ đến hạn mà khách hàng không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng và không có lý do chính đáng. Khi đó Ngân hàng sẽ chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản khác gọi là tài khoản nợ xấu.
- Chỉ tiêu dư nợ trên tổng nguồn vốn: Chỉ tiêu này cho biết dư nợ trong cho vay chiếm bao nhiêu % trong tổng nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng. Công thức tính:
Tổng dư nợ
Dư nợ / Tổng nguồn vốn (%) = * 100(%)
Tổng nguồn vốn
- Chỉ tiêu nợ xấu trên dư nợ: Chỉ tiêu này đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng. Những Ngân hàng có chỉ số này thấp cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng của Ngân hàng này cao.
Công thức tính:
Nợ xấu
Nợ xấu / Dư nợ (%) = * 100(%)
Dư nợ
- Tài sản sinh lời (TSSL): Tài sản sinh lời là tất cả các tài sản đem lại lãi suất, tiền mặt tại quỹ và máy móc thiết bị là 2 loại tài sản không thuộc tài sản sinh lời.
TSSL = Tổng tài sản – (Tiền mặt tại quỹ + tiền dự trữ + máy móc thiết bị)
- Tài sản rủi ro (TSRR): TSRR là TSSL phụ thuộc vào rủi ro tín dụng cũng như rủi ro lãi suất, những tài sản đầu tư vào lĩnh vực có rủi ro cao, có thể bị tổn thất.
TSRR =TSSL – (các chứng từ có giá + chứng khoán đầu tư dưới 1 năm)
- Sự nhạy cảm lãi suất: Sự nhạy cảm lãi suất chỉ sự so sánh giữa nhạy cảm của luồng tiền tệ thuộc tài sản (tài sản nhạy cảm lãi suất) và luồng tiền thuộc nguồn vốn (nguồn vốn nhạy cảm lãi suất).
Tài sản nhạy cảm lãi suất là các loại tài sản mà trong đó thu nhập về lãi suất sẽ thay đổi trong một khoảng thời gian nhất định khi lãi suất thay đổi.
Nguồn vốn (nợ phải trả) nhạy cảm lãi suất là các khoản nợ mà trong đó chi phí lãi suất sẽ thay đổi trong một khoản thời gian nhất định khi lãi suất thay đổi.
1.2.2. Các chỉ số tài chính:
a ) Các chỉ số sinh lợi:
- Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này cho biết khả năng của Ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản. Xác định hiệu quả kinh doanh của một đồng tài sản. Chỉ tiêu này lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng tốt. Công thức tính:
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận ròng / Tổng tài sản = * 100(%)
Tổng tài sản
- Lợi nhuận ròng trên thu nhập: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh đồng thời đánh giá hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Nghĩa là cứ một đồng doanh thu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Công thức tính:
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận ròng / Doanh thu (%) = *100(%) Doanh thu
- Chi phí trên doanh thu: Chỉ tiêu này tính toán khả năng bù đắp chi phí của một đồng thu nhập và đây cũng là chỉ số đo lường hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Công thức tính:
Tổng chi phí
Tổng chi phí /Tổng thu nhập (%) = *100(%) Tổng thu nhập
- Thu nhập trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản của Ngân hàng, chỉ tiêu này cao chứng tỏ Ngân hàng đã phân bổ tài sản đầu tư một cách hợp lý. Công thức tính:
Thu nhập
Thu nhập / Tổng tài sản = * 100(%)
Tổng tài sản
- Mức lãi biên tế: Mức lãi biên tế của Ngân hàng cũng tương tự như mức lợi nhuận, nó là tỷ số của phần trên lệch thu lãi và chi lãi trên tổng tài sản có sinh lời của Ngân hàng. Các nhà quản lý của Ngân hàng theo dõi sự tăng giảm của mức lãi biên tế vì nó còn cần thiết cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Bởi vì mức lãi biên tế thể hiện khả năng sinh lãi của Ngân hàng.
Thu nhập lãi suất – Chi phí lãi suất
Lãi suất biên tế =
Tài sản sinh lợi
b) Chỉ số rủi ro:
-Rủi ro lãi suất: Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng bị suy giảm lợi nhuận của Ngân hàng khi có sự thay đổi lãi suất trên thị trường. Chỉ tiêu này đạt mức an toàn ở 1 đơn vị. Tuy nhiên, đối với một nhà quản trị giỏi, nếu có thể dự đoán được sự tăng giảm của lãi suất trên thị trường sẽ điều chỉnh cơ cấu tài sản, nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất để kiếm thêm lợi nhuận.
Tài sản nhạy cảm với lãi suất
Rủi ro lãi suất =
Nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
- Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng phản ánh rủi ro mà lãi hoặc gốc, hoặc cả lãi và gốc trên chứng khoán hoặc các khoản cho vay sẽ không nhận được như đã hứa. Nợ xấu
Rủi ro tín dụng =
Dư nợ bình quân
- Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản chỉ sự so sánh giữa số tiền cần thiết để thanh toán cho người rút tiền ra và sự gia tăng cho vay với nguồn thực sự hoặc tiềm năng trong thanh toán. Tỷ số này càng cao cho thấy Ngân hàng có rủi ro thấp và lợi nhuận thấp.
Tài sản thanh khoản – Vay ngắn hạn
Rủi ro thanh khoản =
Tổng nguồn vốn huy động
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH KIÊN GIANG
2.1.KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH KIÊN GIANG
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Châu Thành là chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Kiên Giang. Chi nhánh đặt tại khu phố Minh An-thị trấn Minh Lương huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang, được xây dựng và trưởng thành dưới sự chỉ đạo trực tiếp của NHNo&PTNT tỉnh Kiên Giang. Trong quá trình phát triển từ năm 1988 đến nay chia làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Từ trước năm 1988 trở về NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Châu Thành mang tên là Ngân hàng Nhà nước huyện Châu Thành.
+ Giai đoạn 2: Từ năm 1988 đến 1990 thực hiện Chỉ thị 400/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ ban hành đã tách hệ thống Ngân hàng nhà nước thành NHNo&PTNT Kiên Giang trực thuộc Ngân hàng Nhà nước nên Ngân hàng Nông Thôn huyện Châu Thành được đổi tên “NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Châu Thành”.
+ Giai đoạn 3: Từ năm 1990 đến nay cùng với việc ban hành Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính (24/5/1990) và hàng loạt Nghị định của Chính phủ được ban hành trong đó: có Quyết định công nhận Ngân hàng huyện Châu Thành là doanh nghiệp Nhà nước, cùng với sự chuyển đổi trên theo quyết định của chính phủ 1990. NHNo&PTNT Chi Nhánh Huyện Châu Thành chính thức được NHNo&PTNT tỉnh Kiên Giang thành lập vào ngày 15/10/1996 Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam được sự ủy quyền của Thủ Tướng Chính Phủ theo văn bản số 3329/ĐMĐN ngày 11/7/1996 đã quyết định 280/QĐ-NH5 đổi tên NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Châu Thành cho đến nay.
Trải qua nhiều năm hình thành và phát triển, NHNo&PTNT Chi Nhánh huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang đã không ngừng phấn đấu để đạt được kết quả ngày một tốt hơn. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập như ngày hôm nay thì Ngân hàng càng phải phấn đấu hơn nữa để có thể tồn tại trong sân chơi bình đẳng đó. Đến nay, Ngân hàng có thể tự hào rằng vì đã thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của một Ngân hàng hiện đại. Các sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng và chất lượng phục vụ ngày một hoàn thiện hơn.
NHNo&PTNT Chi Nhánh huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang đã có những sản phẩm đa dạng như sau:
- Sản phẩm tiền gửi:
Nhận tiền gửi bằng VND và ngoại tệ.
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
- Sản phẩm tín dụng:
Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn (USD, VND)
Cầm cố kỳ phiếu, trái phiếu và sổ tiết kiệm.
Chiết khấu thương phiếu, chứng từ có giá.
- Dịch vụ Ngân hàng:
+ Mở tài khoản.
Chuyển tiền điện tử.
Chi trả kiều hối.
Bảo lãnh Ngân hàng.
Nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.
- Sản phẩm khác: Mua bán ngoại tệ.
Ngoài những