Ngành sản phẩm sữa Việt Nam đã hình thành và phát triển từ những năm 1960, cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử phát triển kinh tế nước nhà. Trong quá trình này ngành sản phẩm sữa đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển ngành công nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, đóng góp tích cực vào chương trình xoá đói giảm nghèo của khu vực nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp.
77 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam đã hình thành và phát triển từ những năm 1960, cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử phát triển kinh tế nước nhà. Trong quá trình này ngành sản phẩm sữa đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển ngành công nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, đóng góp tích cực vào chương trình xoá đói giảm nghèo của khu vực nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hóa nông nghiệp. Song từ trước tới nay ngành sản phẩm sữa nội địa được phát triển trong chế độ bảo hộ của Nhà nước để thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Những biểu hiện thuận lợi hiện nay của sản phẩm sữa Việt Nam không hẳn đã phản ánh đúng bản chất năng lực thực sự.
Trong bối cảnh mới, khi mà Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, AFTA và với xu thế hội nhập của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới, môi trường cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, nền kinh tế thị trường sẽ được hoàn thiện hơn, chế độ bảo hộ đối với ngành sản phẩm sữa sẽ không còn phù hợp nữa. Liệu sản phẩm sữa Việt Nam có tìm được chỗ đứng cho mình hay không khi những đặc chế này bị xoá bỏ. Cùng với những giới hạn của các nguồn lực phát triển không cho phép chúng ta đầu tư lãng phí vào những ngành không có hiệu quả cạnh tranh cao.
Vì vậy, việc đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam là cần thiết, góp phần quan trọng trong việc định hướng và xây dựng những chính sách phát triển liên quan đến ngành.
Đứng trước yêu cầu trên em đã lựa chọn đề tài “Đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa của ngành sản phẩm sữa Việt Nam” để làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm có ba chương, kết cấu như sau:
Chương I: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa
Việt Nam.
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa của
ngành sản phẩm sữa Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp phát triển cho ngành sản phẩm sữa
Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về kinh nghiệm và trình độ nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, cán bộ hướng dẫn nơi thực tập và của các anh chị em sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Vũ Cương cùng tập thể cán bộ Ban nghiên cứu và phát triển các ngành sản xuất đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện chuyên đề này !
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2005
Chương i
lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt nam
I/ những vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh của một ngành sản phẩm:
Nếu sét về năng lực cạnh tranh, chúng ta phải dặt ngành sản phẩm trong hai môi trường cạnh tranh cụ thể để phân tích: đó là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Trong bài này, chỉ lựa chọn đánh giá khả năng cạnh tranh ở tầm vĩ mô, tức là khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm giữa các đối thủ quốc tế trên cùng một thị trường, không đi vào phân tích năng lực cạnh tranh giữa các sản phẩm trong cùng một nước.
1.Khái niệm về năng lực cạnh tranh và cách tiếp cận vấn đề :
Vấn đề cạnh tranh, về mặt lý luận, từ lâu đã được các nhà kinh tế học trước C.Mác và chính các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề cập đến. Thuật ngữ cạnh tranh được dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh tranh kinh tế (Economic Competition ) bằng một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Cạnh tranh xuất hiện trong quy trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu… do các cách tiếp cận khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy rằng: cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích, đó là lợi ích (trong đó bao gồm cả vấn đề lợi nhuận tối đa). Cạnh tranh chính là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể.
Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau, nếu xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể kinh tế trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác đã dùng cách phân loại trên đây nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. ở đó, C.Mác chỉ rõ trước hết để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện sự cạnh tranh trong nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trường. Và sau nữa, để đạt mục tiêu giành nơi đầu tư có lợi, giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các ngành, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Cuối cùng xét theo phạm vi lãnh thổ người ta nói tới cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Trong trường hợp này năng lực cạnh tranh của sản phẩm sữa được đánh giá trên góc độ là cạnh tranh trong nội bộ ngành sản phẩm đồng thời xét theo phạm vi lãnh thổ chúng ta đánh giá và so sánh khả năng cạnh tranh như là cuộc cạnh tranh quốc tế, mặc dù vấn đề chúng ta nghiên cứu chủ yếu là cạnh trên thị trường trong nước là chính.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái niệm như sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng các khái niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Trong thực tế, thì sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh trang được sử dụng như những khái niệm đồng nghĩa. Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong các sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính khách, nhà kinh doanh … Cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lường phân tích năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia, ngành, công ty… Lý do là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh.
Trong bài này, trên quan điểm xuất phát của cạnh tranh là bắt đầu từ khi các doanhh nghiệp phải đương đầu với những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường khi cung lớn hơn cầu. Nên chúng ta có thể hiểu khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm của một nước chính là điểm mạnh mà đối thủ cạnh tranh không dễ dàng có được (đối thủ cạnh tranh ở đây có thể là các cùng đối thủ cạnh tranh cùng ngành của một nước khác hoặc các đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế ). Điểm mạnh ở đây, theo M.Porter đó là khả năng doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng với chi phí sản xuất thấp nhất. Tức là, khả năng cạnh tranh của sản phẩm ở đây có được thể hiện qua giá, có thể là chất lượng hay là sự kết hợp của cả hai mà doanh nghiệp hay ngành sản phẩm của một nước có thể cung cấp cho khách hàng của mình mà vẫn đảm bảo được mức lãi xuất cho doanh nghiệp hay cho ngành.
2.Phương pháp phân tích khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa:
Phương pháp phân tích này dựa trên cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của M.Porter về ngành sản phẩm. Theo M.Porter năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể dựa vào hai tiêu thức: sản phẩm có giá rẻ hơn so với đối thủ cạnh tranh hoặc là sản phẩm có giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khách biệt. Nhưng xét đến sau cùng M.Porter vẫn cho rằng bản chất khả năng cạnh tranh của một ngành sản phẩm đối với một nước là khả năng giảm chi phí sản xuất loại sản phẩm ngành đó.
Do vậy chúng ta có thể sử dụng hai chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm:
2.1.Các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của sản phẩm:
2.1.1 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá:
Chỉ tiêu này được sử dụng với vai trò là một sự so sánh về giá giữa các doanh nghiệp cạnh tranh. Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng đầu tiên khi xem xét xem một sản phẩm nào đó có khả năng cạnh tranh hay không. Bởi thông qua giá, mà doanh nghiệp có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn khách hàng về phía mình, tất nhiên là trong mối tương quan với chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng nhất là đối với các doanh nghiệp hay với ngành sản xuất sản phẩm có ít hàm lượng khoa học kĩ thuật, như hàng tiêu dùng thông thường đặc biệt là hàng lương thực thực phẩm. Nhất là trong điều kiện về thu nhập của người tiêu dùng còn thấp.
Vấn đề khả năng cạnh tranh về giá còn cho thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn các đối thủ của nó. Điều này thể hiện các hoạt động tạo ra giá trị của doanh nghiệp có tính ưu việt hơn các đối thủ cạnh tranh. Chi phí thấp cho phép doanh nghiệp có khả năng đương đầu với những diễn biến bất lợi của có tác động đến giá cân bằng thị trường.
2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng:
Trước tiên, chất lượng sản phẩm ít nhất phải được xác nhận về chất lượng và quy trình công nghệ của các cơ quan chuyên trách. Đây là nhân tố đầu tiên đảm bảo doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn cơ bản, đủ tư cách sản xuất ra loại hàng hoá nào đó theo quy định của pháp luật (đối với từng sản phẩm đặc thù đều có những tiêu chuẩn kiểm định riêng về chất lượng do cơ quan có thẩm quyền đưa ra).
Thứ hai đó là chất lượng được khẳng định trong tâm trí người mua hàng, đó là một thứ tài sản vô hình vô cùng quý báu của doanh nghiệp như uy tín, tên tuổi sản phẩm. Nó thể hiện sự tin tưởng vào sản phẩm của khách hàng, tức là khi lựa chọn để sử dụng loại sản phẩm đó người mua nghĩ ngay đến sản phẩm của doanh nghiệp, ngay cả khi giá sản phẩm có cao hơn thị trường. Đó là khi, nếu cùng một chủng loại sản phẩm giá như nhau, chất lượng sản phẩm sẽ được đo bằng số lượng người mua lựa chọn loại sản phẩm của doanh nghiệp, tức là thị phần của doanh nghiệp có được trên cùng một loại sản phẩm. Chất lượng tạo sự tin cậy lâu dài của khách hàng vào sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp doanh nghiệp nào có uy tín hơn về chất lượng sẽ thắng thế trong cạnh tranh.
Chất lượng sản phẩm còn được đánh giá theo quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, chỉ tiêu chất lượng thực ra xét về bản chất nó đã nằm trong chỉ tiêu về giá. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nó được chú trọng nhiều hơn, nhất là đối với các sản phẩm được sản xuất và cung cấp với giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khác biệt sản phẩm. Để làm được như vậy, công ty phải tạo ra thế mạnh cơ bản trong một hoặc một số chức năng sáng tạo ra giá trị.
Nhìn chung các đánh giá cạnh tranh thường sử dụng trong ngắn hạn, nếu trong điều kiện cạnh tranh tương đối hoàn hảo thì khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành sản phẩm của một nước được biểu hiện ở chỉ số thị phần chiếm lĩnh được. Thế nhưng trên thực tế, trong lịch sử kinh tế năng lực cạnh tranh ngành của một số nước dựa phần lớn vào chế độ bảo hộ của Chính phủ. Như việc Chính phủ đưa ra hạn ngạch có thể làm hạn chế sự cạnh tranh của các sản phẩm nhập khẩu do vậy mà sản phẩm trong nước mới chiếm lĩnh được thị trường lớn hơn.
2.2.Nội dung phân tích như sau:
Trong tác phẩm bàn về cạnh tranh toàn cầu, Porter đã tổng hợp phương pháp nghiên cứu trong quá khứ, xây dựng mô hình lý luận gồm bốn nhân tố giữ vai trò mấu trốt đối với sự thành công trong cạnh tranh của một ngành nhất định. Trong bốn nhân tố này, em kết hợp nhân tố thứ ba và thứ tư để thuận lợi hơn trong quá trình phân tích, như vậy chỉ còn ba nhân tố cơ bản:
2.Nhu cầu trong nước.
1.Việc kết hợp các yếu tố sản xuất.
3.Cạnh tranh trong nước với các doanh nghiệp chủ chốt.
Dựa trên cơ sở lý luận của M.Porter, chúng ta có thể tiến hành phân tích như sau:
*Trước tiên chúng ta phân tích khái quát theo quan sát trên thị trường xem ngành sản phẩm được sản xuất trong nước phục vụ cho quy mô thị trường như thế nào. Rõ ràng sản phẩm của một nước chiếm thị phần lớn, phục vụ đa số khách hàng của thị trường thì phải là sản phẩm ưu điểm nổi trội, tức là có khả năng cạnh tranh. Từ đây chúng ta có những nhận định ban đầu về khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm.
*Sau đó, chúng ta đi vào bản chất vấn đề, những biểu hiện khả năng cạnh tranh trên thị trường nhờ vào phân tích thị phần có thể tin cậy được hay không. Tức là chúng ta đi vào đánh giá sức cạnh tranh theo các tiêu chí về giá và chất lượng của sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng cạnh tranh thật sự thì những thì việc sản phẩm có quy mô thị trường lớn là hoàn toàn hợp lý. Nếu ngược lại, tức là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, không phản ánh được thực chất vấn đề.
*Từ việc đánh giá chỉ tiêu cạnh tranh trên sẽ có hai trường hợp xảy ra:
TH1: Nếu ngành sản phẩm trong nước có khả năng cạnh tranh chúng ta phân tích các yếu tố tác động đến sức cạnh tranh của ngành sản phẩm. Từ đó, có các định hướng giải pháp khắc phục những khó khăn từ các yếu tố tác động.
TH2: Nếu trên tổng thể ngành không có khả năng cạnh tranh, ta có thể phân tích theo cơ cấu ngành có thể có khả năng phát triển ở những nhóm sản phẩm nào, nguyên nhân tại sao và có những định hướng gì để khắc phục nếu không thể khắc phục được thì có những chuyển sang hướng đến sản phẩm mới.
Phương pháp phân tích ở đây chúng ta phân tích theo hướng đặt ngành trong mối quan hệ cạnh tranh công bằng trên thị trường, tức là không công nhận khả năng cạnh tranh nhờ vào chế độ bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó phải chỉ ra được khả năng cạnh tranh của ngành trong tương lai là có hay không, tức là khả năng giảm giá sản phẩm của ngành có thể thực hiện được hay không.
Cách phân tích khả năng giảm giá của sản phẩm trong điều kiện có đóng góp của các yếu tố sản xuất từ nước ngoài, ta dựa vào tỷ lệ phần đóng góp của các yếu tố đầu vào và quy trình tạo ra giá trị sản phẩm. Trong đó phần nào chiếm tỷ lệ cao nhất và khả năng nội địa hoá là bao nhiêu. Phần nội địa hoá càng có góp phần tạo giá trị mới cho sản phẩm càng cao thì khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm đó càng cao. Vấn đề này càng phải được phân tích chặt chẽ khi sản phẩm có chứa những yếu tố sản xuất từ nước ngoài mà khả năng cạnh tranh hiện tại chưa có hay chưa thể hiện rõ.
Chú ý là khi đưa ra phương hướng phát triển ngành nên đặt ngành trong mối quan hệ tổng thể giữa cả các mục đích kinh tế và xã hội.
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm:
Theo phương pháp phân tích trên của M.porter ta có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm như sau:
4.1.Các nhân tố từ phía thị trường:
Phân tích đánh giá nhóm điều kiện về cầu phản ánh bản chất cầu thị trường trong nước đối với sự sản phẩm của ngành. Nhóm này sẽ cho ta thấy chu kỳ sống sản phẩm của ngành, ngành nào có cầu càng lớn, đơn giản, ngành đó càng có khả năng cạnh tranh nhờ giản chi phí, giảm giá nhưng lại tăng doanh thu. Nhu cầu trong nước lớn, khiến ngành sản phẩm trong nước có điều kiện phát triển vững hơn, không phải đối phó vất vả để giành giật những khoảng thị trường nhỏ bé và sự tốn kém để cạnh tranh với các đối thủ mạnh mẽ nước ngoài trên thị trường quốc tế.
4.2.Các yếu tố về điều kiện nguồn lực:
Một nước muốn phát triển ngành thuỷ sản không thể không có vùng biển rộng, nguồn thuỷ sản phong phú, muốn phát triển ngành sản phẩm mỹ nghệ không thể không có nguồn nhân công có kĩ thuật và kinh nghiệm,…Các yếu tố về nguồn lực sẽ tạo cho ngành sản phẩm của nước đó có lợi thế cạnh tranh so sánh, là tiền đề để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Dựa vào những lợi thế so sánh này, các doanh nghiệp sẽ có các phương thức kết hợp đầu vào hợp lý, có nhiều điều kiện cho ra sản phẩm có chất lượng cao, chi phí thấp hơn so với những doanh nghiệp ở các nước không có những thuận lợi về nhân tố đầu vào sản xuất. Bên cạnh đó chúng ta luôn biết rằng bất kỳ một nước nào, một ngành nào, một doanh nghiệp nào cũng đều bị hạn chế bởi sự khan hiếm tài nguyên. Do vậy luôn phải có sự lựa chọn để phát triển ngành đen lại lợi ích tối ưu nhất.. Phân tích đánh giá nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất: điều này đem lại tiềm năng phát triển ổn định chủ động cho ngành, đồng thời tạo điều kiện cơ sở cho lợi thế cạnh tranh trong tương lai. Nhóm gồm:
1.Nguồn nguyên liệu.
2.Lao động.
3.Khoa học công nghệ.
4.3.Các nhân tố từ môi trường cạnh tranh trong nước với doanh nghiệp chủ chốt:
Phân tích nhân tố này cho thấy khả năng của các công ty trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh ngành như: số lượng công ty tham gia vào ngành, vị thế đàm phán của bên cung ứng, thị phần và tình hình sản xuất kết hợp các yếu tố đầu vào cho ra sản phẩm. Sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ ngành có thể sẽ làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp nhưng lại khiến ngành ở nơi sở tại ấy đi trước đối thủ cạnh tranh là người nước ngoài. Hay nói cách khác đó là đánh giá trình độ quản lý, quy trình để có được sản phẩm đầu ra. Có thể chia mục này thành hai phần cơ bản sau:
Các công ty tham gia vào ngành, thị phần và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty hiện nay.
Vị thế đàm phán của bên cung ứng.
II/Ngành sản phẩm sữa và sự cần thiết phải đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam:
1.Đặc điểm của ngành sản phẩm sữa:
Ngành sản phẩm sữa Việt Nam được hình thành từ những năm 1960, nhưng chỉ thực sự phát triển từ năm 1986 khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới. Trong những năm trở lại đây, thu nhập bình quân người dân Việt Nam tăng lên, do vậy mới phát triển mạnh mẽ nhu cầu sử dụng sữa, và khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sữa ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng nhiều hơn nữa trong thời gian tới. Có thể coi hiện ngành sữa Việt Nam đang nằm trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống của ngành. Do vậy, rất thuận lợi cho ngành sữa có điều kiện phát triển, giảm tính cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành để phân chia thị trường.
Do sản phẩm sữa là sản phẩm có liên quan đến sức khoẻ, chế độ dinh dưỡng, an toàn thực phẩm của con người nên ngành công nghiệp chế biến sữa hiện đang rất được các nước trên thế giới đặt trong sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Đối với các nước phát triển chăn nuôi bò sữa, sự kiểm soát này được Bộ Nông nghiệp và các Hiệp hội sữa thực hiện thông qua các điều luật chặt chẽ. Ngay từ đầu thế kỷ 20 (1908) các nước trên thế giới đã có các quy định thống nhất về quy trình kỹ thuật, an toàn thực phẩm cho việc sản xuất và chế biến sữa. ở Việt Nam những vấn đề này hầu như chưa được Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm và vẫn ở trình trạng buông lỏng. Điều này có tác động không tốt tới cạnh tranh bình đẳng trong nước, có thể một số doanh nghiệp sử dụng công nghệ chế biến kém, nguyên liệu chất lượng xấu để cạnh tranh về giá. Đồng thời sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sữa trong nước đối với hàng nhập khẩu (vì sản phẩm nhập khẩu thường đã được chứng nhận về chất lượng).
2.Sự cần thiết phải đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sữa Việt Nam:
Trước hết, trong quá trình phát triển, ngành công nghiêp sữa Việt Nam đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của ngành công nghiệp cả nước. Trong ngành công nghiệp chế biến sữa, đơn vị nòng cốt là Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk). Từ năm 1994 có thêm công ty Foremost (nay là Dutch Lady) là công ty liên doanh giữa Công ty suất nhập khẩu Sông Bé với Công ty Friesland Vietnam Holding B.V được cấp giấy phép hoạt động (tháng 4/1994) và Công ty Nestle Việt Nam- doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Thực trạng đóng góp và phát triển của ngành công nghiệp chế biến sữa được thể hiện trong bảng sau:
Bảng1: Giá trị sản xuất công nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng
1995
1997
1998
1999
2000
2001
Công nghiệp toàn quốc
103.374
134.420
150.685
168.749
195.225
223.578
Bộ Công nghiệp quản lý
24.783
32.080
34.956
36.284
41.793
48.159
Công ty Sữa VN
1.065,3
1.119,4
1.420
1.896,1
2.316
3.648
(Nguồn: Số liệu của Bộ Công nghiệp)
So sánh về giá trị sản xuất công nghiệp, tỷ trọng của Vinamilk so với Bộ Công nghiệp chiếm 4,30% trong năm 1995 đã tăng lên 5,54% trong năm 2000 (so với toàn ngành công nghiệp, con số tương ứng là 1,03% và 1,19%). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng của ngành sữa cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Tính theo giá trị sản xuất công nghiệp, ngành sữa có mức tăng trưởng trung bình là 20%/năm trong giai đo