Trong những năm gần đây các hoạt động 
kinh tế, du lịch biển phát triển mạnh, nhiều các 
công trình được xây dựng ởvùng cửa sông ven 
biển nhưcầu, cảng, kè chắn sóng. đã phần nào 
tác động đến các yếu tốthủy động lực trong 
vùng. Các tác động này có thểtheo hướng tích 
cực nhưchống bồi lấp luồng tàu, bảo vệcác 
vùng xung yếu hoặc cũng có thểtiêu cực như
gây xói lởcục bộ, làm hưhại hoặc phá hủy các 
công trình lân cận. Vùng cửa sông ven biển Cửa 
Tùng sông Bến Hải tỉnh Quảng Trịgần đây có 
sựthay đổi mạnh mẽvềhình thái [1]. Một trong 
những nguyên nhân dẫn đến sựthay đổi đó có 
thểlà các công trình mới xây dựng ởkhu vực 
này do có sựtrùng hợp vềthời điểm xuất hiện 
công trình với các hiện tượng bồi xói bất 
thường ởcác bãi biển trong khu vực. Khi có 
mặt các công trình nhưcầu, đê chắn cát, 
cảng, trường thủy động lực sẽcó những biến 
đổi nhất định và có tác động đến các quá trình 
vận chuyển bùn cát ven bờdo vậy có thểgây 
ảnh hưởng đến hình thái vùng cửa sông ven 
biển
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1793 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá tác động công trình đến bức tranh thủy động lực khu vực cửa sông ven bờ Bến Hải, Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 
435 
_______ 
Đánh giá tác động công trình đến bức tranh thủy động lực 
khu vực cửa sông ven bờ Bến Hải, Quảng Trị 
Nguyễn Thọ Sáo1, Trần Ngọc Anh1,*, Nguyễn Thanh Sơn1, Đào Văn Giang2
1Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2Trung tâm Hải văn, Tổng cục biển và hải đảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường 
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Bài báo này giới thiệu một số kết quả nghiên cứu đánh giá tác động của các công trình 
đến các trường thủy động lực vùng cửa sông ven biển Cửa Tùng, sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị 
bằng bộ mô hình MIKE 21 với các mô đun HD, SW và ST, từ đó phân tích nguyên nhân dẫn đến 
các hiện tượng bồi xói bất thường trong khu vực, làm tiền đề cho việc đề xuất và quy hoạch các 
công trình chỉnh trị phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội và môi trường. 
Từ khóa: MIKE, vùng cửa sông ven biển, Cửa Tùng, công trình chỉnh trị sông 
1. Đặt vấn đề∗
Trong những năm gần đây các hoạt động 
kinh tế, du lịch biển phát triển mạnh, nhiều các 
công trình được xây dựng ở vùng cửa sông ven 
biển như cầu, cảng, kè chắn sóng... đã phần nào 
tác động đến các yếu tố thủy động lực trong 
vùng. Các tác động này có thể theo hướng tích 
cực như chống bồi lấp luồng tàu, bảo vệ các 
vùng xung yếu hoặc cũng có thể tiêu cực như 
gây xói lở cục bộ, làm hư hại hoặc phá hủy các 
công trình lân cận. Vùng cửa sông ven biển Cửa 
Tùng sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị gần đây có 
sự thay đổi mạnh mẽ về hình thái [1]. Một trong 
những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đó có 
thể là các công trình mới xây dựng ở khu vực 
này do có sự trùng hợp về thời điểm xuất hiện 
công trình với các hiện tượng bồi xói bất 
thường ở các bãi biển trong khu vực. Khi có 
mặt các công trình như cầu, đê chắn cát, 
cảng,… trường thủy động lực sẽ có những biến 
đổi nhất định và có tác động đến các quá trình 
vận chuyển bùn cát ven bờ do vậy có thể gây 
ảnh hưởng đến hình thái vùng cửa sông ven 
biển. 
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943. 
 E-mail: anhtnvnu.edu.vn 
Bài báo này giới thiệu một số kết quả 
nghiên cứu đánh giá tác động của các công 
trình đến các trường thủy động lực vùng cửa 
sông ven biển Cửa Tùng, sông Bến Hải tỉnh 
Quảng Trị bằng công cụ mô hình toán, từ đó 
phân tích nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng 
bồi xói bất thường trong khu vực, làm tiền đề 
cho việc đề xuất và quy hoạch các công trình 
chỉnh trị phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã 
hội và môi trường kinh tế xã hội và môi trường. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 436
2. Khái quát khu vực nghiên cứu 
Bãi biển Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị từng là 
một trong những bãi tắm đẹp, thu hút nhiều du 
khách. Hiện nay bãi biển phía bắc Cửa Tùng bị 
xói lở mạnh, chỉ còn một khoảng không gian 
nhỏ. Về tự nhiên, Cửa Tùng nằm ở một vị trí 
địa lý phức tạp (hình 1), chịu ảnh hưởng của 
các điều kiện tự nhiên như: sóng biển, thủy 
triều, hải lưu, nước dâng và dòng bùn cát; dòng 
chảy sông và các tai biến lũ lụt; gió mùa đông 
bắc, tây nam và bão, nền địa chất phức tạp trên 
khối bazan cùng với các chu kỳ biến đổi khí 
hậu toàn cầu và các hoạt động kinh tế xã hội 
đang diễn ra mạnh mẽ trong khu vực. Những 
năm gần đây, bãi tắm phía bắc Cửa Tùng ngày 
càng bị thu hẹp về không gian do sự xâm thực 
ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn cường độ, 
dẫn tới các tổn thất về du lịch [2]. 
Quang Tri Province 
Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu. 
Nhằm đáp ứng các nhu cầu về giao thông, 
giao thương giữa hai bờ Nam – Bắc sông Bến 
Hải cũng như các hoạt động đánh bắt thủy sản, 
giao thương với huyện đảo Cồn Cỏ, thời gian 
gần đây đã có một loạt công trình được xây 
dựng (hình 2) mà tiêu biểu là cầu Tùng Luật, 
cảng cá Cửa Tùng và đê chắn cát mố phía nam 
cầu Tùng Luật (gọi tắt là kè). 
Cầu Tùng Luật được xây dựng vào năm 
2004 ngay nơi dòng sông gặp biển, nối hai 
huyện huyện Gio Linh và Vĩnh Linh. Cầu có 
thiết kế dài 461 m, rộng 9m, tải trọng H30-
XB80, khổ thông thuyền 50m, tĩnh không 8,5 m 
với 4 trụ cầu có kích thước mỗi trụ: 10,5mx 7m. 
Kè Cửa Tùng bắt đầu được xây dựng từ 
năm 2004, nằm phía bờ nam Cửa Tùng, bờ kè 
được xây dựng có chiều dài 430 m, cao 1,5 m, 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 437
rộng 6 m với kết cấu bằng đá hộc và cốt thép 
vươn dài ra biển nhằm mục đích chắn sóng, 
chắn cát, giảm xói mòn trụ cầu Tùng Luật cũng 
như ngăn chặn bồi lấp cửa phục vụ giao thông 
thủy và an toàn hàng hải cho cảng cá Cửa Tùng. 
Cảng cá Cửa Tùng bắt đầu được xây dựng 
từ năm 2004, khi Sở Thuỷ sản Quảng Trị (nay 
thuộc Sở NN-PTNT Quảng Trị) thực hiện dự án 
khu neo đậu trú bão và hậu cần nghề cá với 
mục tiêu là cung cấp bến neo đậu, tránh trú bão, 
hậu cần nghề cá và hiện đại hoá khu sản xuất 
nghề cá ven biển. Trước đây, tại vị trí cảng cá 
Cửa Tùng là một eo biển kín gió, được một cồn 
cát lớn nằm phía ngoài che chắn sóng biển. Khi 
thực hiện dự án, hơn 200.000 m3 cát ở cồn này 
bị múc đi đổ vào san lấp eo biển tạo thành một 
bãi cát bằng phẳng chính là mặt bằng cảng cá 
hiện nay. 
Nhằm mục đích đánh giá tác động của các 
công trình cầu – kè – cảng đến bức tranh thủy 
động lực trong vùng, khu vực nghiên cứu được 
xác định gồm hai miền: miền trong sông từ cầu 
Hiền Lương đến cửa và miền biển ven bờ (xem 
hình 3 
3. Phương pháp tiếp cận 
Để đánh giá tác động của công trình hoặc 
hệ thống công trình đến chế độ thủy động lực 
có nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên sử 
dụng (các) mô hình thủy động lực là phương 
pháp rẻ và tin cậy đồng thời có thể cung cấp các 
giải pháp thay thế cũng như các dự báo cho 
tương tai. Hỗ trợ cho mô hình thủy động lực là 
các biện pháp điều tra, thu thập và xử lý số liệu 
để tăng cường độ tin cậy của các đầu vào yêu 
cầu cho mô hình cũng như phân tích nhằm làm 
sáng tỏ bức tranh thủy động lực trong khu vực 
trước và sau khi có công trình, từ đó đánh giá 
sơ bộ các luận điểm và sẽ được minh chứng lại 
bằng các công cụ mô phỏng trong các bước tiếp 
theo. Số liệu khí tượng, thủy hải văn trong khu 
vực nghiên cứu đã được thu thập và cập nhật 
đến năm 2008 cùng các nguồn số liệu khác như 
tài liệu khảo sát địa hình năm 2000 và tài liệu 
phân tích cấp hạt của TEDI, ảnh hàng không 
chụp năm 2003, ảnh vệ tinh Google... 
Bên cạnh đó nhằm bổ sung số liệu, hai đợt 
khảo sát và đo đạc đã được thực hiện vào tháng 
8/2009 và 4/2010 trong đó tập trung vào đo đạc 
địa hình khu vực nghiên cứu phần dưới nước, 
phần trên cạn, dòng chảy, sóng, gió, trầm tích 
đáy và lơ lửng kết hợp với các điều tra thu thập 
thông tin xã hội [1]. Số liệu khảo sát sau đó 
được xử lý và đưa về các dạng tương thích phục 
vụ công tác thiết lập mô hình ở bước tiếp theo 
Hình 2. Sơ đồ bố trí công trình khu vực nghiên cứu. 
Hình 3. Lưới phần tử hữu hạn dùng trong mô hình 
MIKE 21 FM. 
Cảng cá 
Cầu Tùng Luật 
Kè
K2
K1
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 438
4. Kết quả mô phỏng 
Trên thế giới và trong nước hiện có nhiều 
mô hình thủy động lực đang được áp dụng cho 
nhiều mục đích khai thác khác nhau như nghiên 
cứu, quy hoạch và thiết kế hệ thống công 
trình... tiêu biểu có thể kể đến SORBEK (Hà 
Lan), MIKE (Đan Mạch),…tuy nhiên, mỗi mô 
hình đều có những ưu nhược điểm riêng và cho 
đến nay vẫn chưa có một đánh giá toàn diện và 
chi tiết về khả năng áp dụng trong thực tế của 
các mô hình nói trên. Trong nghiên cứu này, 
với mục tiêu mô phỏng và tính toán ảnh hưởng 
của các công trình lên trường thủy động lực 
vùng cửa sông ven biển Cửa Tùng - Quảng Trị, 
bộ mô hình MIKE 21 đã được lựa chọn do đáp 
ứng được những tiêu chí: a) Là bộ phần mềm 
tích hợp đa tính năng (tính toán trường sóng, 
dòng chảy, vận chuyển trầm tích, diễn biến địa 
hình đáy; b) Đã được kiểm nghiệm thực tế ở 
nhiều quốc gia trên thế giới [3]; c) Giao diện 
thân thiện, dễ sử dụng và tương thích với nhiều 
phần mềm GIS khác. 
4.1. Thiết lập mô hình 
* Miền tính và lưới tính 
Miền tính được xác định từ khoảng vĩ độ 
16º58’ N - 17º4’ N , kinh độ 107º3’ E - 107º10’ 
E, từ cầu Hiền Lương đến cầu Tùng Luật và từ 
cầu Tùng Luật ra biển cách bờ khoảng 3,5 km 
(hình 3). Để tính toán các trường thủy động lực 
và sau đó đánh giá tác động công trình đến bức 
tranh thủy động lực khu vực cửa sông ven bờ 
Bến Hải, Quảng Trị trên cơ sở các tài liệu địa 
hình đã có, nghiên cứu này đã lựa chọn lưới 
phần tử hữu hạn với độ phân giải thay đổi tăng 
dần từ ngoài biển vào sát bờ và cao nhất xung 
quanh các công trình. Trong toàn miền diện tích 
của phần tử lớn nhất là 100000 m2, nhỏ nhất là 
100 m2, góc nhỏ nhất 23º; vùng tính toán được 
rời rạc hóa thành 10767 phần tử với 5717 nút 
lưới, độ phân giải thô nhất ở vùng ngoài khơi 
khoảng 400m, mịn nhất vùng gần bờ và các 
công trình khoảng 20m. Mỗi kịch bản tính toán 
về sự tồn tại hay không tồn tại công trình sử 
dụng một lưới tính khác nhau và hình 3 minh 
họa một ví dụ về lưới tính với trường hợp hiện 
trạng (có cả cụm công trình cầu - kè - cảng). 
* Điều kiện biên 
Ba mô đun HD, SW và ST có thể tính toán 
riêng rẽ theo từng mục đích, tuy nhiên trong bài 
này sử dụng kết quả mô hình FM liên hợp, tức 
là tính toán trường thủy động lực có xét đến tác 
động sóng, đồng thời với mô hình vận chuyển 
trầm tích và biến đổi đáy. Như vậy mô hình 
sóng được tính trước tiên với 3 hướng chính 
NE, E và SE. Để tiết kiệm thời gian tính toán, 
sóng được coi phát triển hoàn toàn và ổn định 
trong suốt thời gian tính (ứng suất bức xạ không 
đổi theo thời gian). Đối với tính toán sóng, sử 
dụng điều kiện biên là độ cao, chu kỳ và hướng 
sóng tại biên phía biển, tại biên phía bắc và nam 
là điều kiện đối xứng. Trong tính toán mực 
nước và dòng chảy sử dụng điều kiện biên tại 
Bến Hải là mực nước hoặc lưu lượng, tại phía 
biển là các hằng số điều hòa thủy triều của 8 
sóng theo bản đồ đồng triều toàn cầu.. Điều 
kiện biên đối với trầm tích lơ lửng là cân bằng 
nồng độ, tham số trầm tích đáy lựa chọn là d50 
= 0.27mm, độ chọn lọc cát là 1.4 [1]. 
4.2. Hiệu chỉnh và kiểm định mô hình 
Mô hình được hiệu chỉnh và kiểm định với 
tài liệu đo đạc dòng chảy và mực nước tại hai 
điểm trong vùng nghiên cứu (1 điểm trong vùng 
biển ven bờ K1 và 1 điểm trong vùng cửa sông 
K2, gần khu cảng cá) với chuỗi số liệu từ ngày 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 439
12-18/8/2009 và từ ngày 21-28/4/2010. Kết quả 
tính toán mô phỏng khá tốt đối với mực nước, 
nhưng chưa tốt lắm đối với vận tốc. Mặc dù vậy 
xu thế, dáng điệu và sự trùng pha tương đối phù 
hợp với thực đo cho phép đánh giá mô hình 
được thiết lập với bộ thông số đã hiệu chỉnh là 
đáng tin cậy và có thể sử dụng cho tính toán các 
kịch bản tiếp theo. Các kết quả tính toán dưới 
đây ứng với trường hợp 12-18/8/2009, các hình 
4, 5, 6. 
Hình 5. So sánh lưu tốc đo và tính toán tại K2. 
-0.6
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
12/8/2009 12:00 AM 14/8/2009 12:00 AM 16/8/2009 12:00 AM 18/8/2009 12:00 AM
 Time
H
 (m
)
Obs. Cal.
5. Đánh giá tác động các công trình 
Trước hết cần nhận định rằng trong khu vực 
nghiên cứu, trường thủy động lực do sông và 
thủy triều không đáng kể so với trường sóng. 
Biên độ thủy triều chỉ khoảng 45cm, dòng chảy 
sông trung bình khoảng 20m3/s, trong khi độ 
cao sóng có nghĩa xấp xỉ 3m tại ranh giới phía 
đông khu vực ngiên cứu 
Hình 6. So sánh mực nước đo và tính toán tại K2. 
Mặc dù điều kiện sóng tại Cồn Cỏ rất đa 
dạng, tuy nhiên Cồn Cỏ ở xa khu vực nghiên 
cứu khoảng 34km, do đó cần lấy sóng Cửa 
Tùng với ba hướng sóng cơ bản là NE, E và SE. 
Hình hoa sóng tại Cồn Cỏ và Cửa Tùng dưới 
đây cho thấy điều đó, lấy tháng 9-12 làm đại 
diện (hình 7), các tháng khác xu thế cũng tương 
tự 
Để làm cơ sở so sánh và đánh giá tác động 
của các công trình, ngoài việc tính toán với điều 
kiện hiện trạng cụm công trình (cầu-kè-cảng) để 
kiểm định mô hình ở trên, cần có kịch bản nền 
ứng với điều kiện tự nhiên khi chưa có các công 
trình. 
Hình 4. So sánh lưu tốc đo và tính toán tại K1. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 440
Hình 7. Hoa sóng tại Cồn Cỏ và Cửa Tùng trong các tháng 9-12. 
Trước đây trong tình trạng tự nhiên, khu 
vực cảng cá là một eo biển kín gió, được một 
cồn cát lớn nằm phía ngoài che chắn sóng biển. 
Khi thực hiện dự án, con người đã có những tác 
động đáng kể đến địa hình đáy khu vực nghiên 
cứu do vậy nghiên cứu này đã sử dụng tài liệu 
địa hình 2000 [4,5] để làm kịch bản nền. Ngoài 
ra, trên cơ sở các tài liệu về địa hình hiện trạng 
và kích thước, hình dạng các công trình, thêm 3 
kịch bản tính toán đươc thiết lập bao gồm: a) 
Kịch bản 1: địa hình 2010 + cảng cá; b) Kịch 
bản 2: địa hình 2010 + cảng + cầu; c) Kịch bản 
3: địa hình 2010 + cầu + kè + cảng. Mỗi kịch 
bản tính toán được thực hiện đầy đủ cả 3 mô 
đun HD, SW và ST, ứng với các hướng sóng 
thịnh hành là Đông Bắc, Đông và Đông Nam. 
Tuy nhiên trong giới hạn của bài báo chỉ trình 
bày minh họa kết quả tính toán trường dòng 
chảy trong khu vực nghiên cứu ứng với trường 
hợp sóng Đông Nam (hình 8-11). 
Việc xây dựng cảng cá với các tác động 
trực tiếp đến bar cát chắn cửa sông chắc chắn sẽ 
mang lại nhiều thay đổi bức tranh thủy động 
lực. Các phân tích dựa trên kết quả tính toán với 
điều kiện địa hình 2000 và 2010 cho thấy, cảng 
cá đã làm tăng đáng kể bề rộng mặt cắt ngang 
cửa, nhưng cũng làm thu hẹp một phần phía 
thượng lưu, dẫn đến thay đổi rõ nét về dòng 
chảy trong khu vực, đặc biệt, trục động lực cửa 
sông lệch dần sang phải nếu nhìn ra biển. Cửa 
sông được mở rộng nên tạo cơ hội thuận lợi hơn 
cho các trao đổi giữa hai thủy vực sông – biển 
đồng thời tạo nên các xoáy cục bộ vùng lân cận 
cửa làm tăng khả năng lắng đọng các hạt trầm 
tích lơ lửng. 
Hình 8. Trường dòng chảy sóng Đông Nam trường 
hợp chưa có công trình. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 441
Hình 9. Trường dòng chảy sóng Đông Nam kịch bản 1. 
Hình 10. Trường dòng chảy trong sóng Đông Nam 
kịch bản 2. 
Hình 11. Trường dòng chảy trong sóng Đông Nam 
kịch bản 3. 
Mặt khác, sau khi xây dựng cầu đã làm cho 
mặt cắt sông bị thu hẹp lai và kết hợp với các 
trụ cầu đã làm thay đổi hướng của dòng chảy và 
tạo lên các xoáy cục bộ phía sau trụ cầu. Mặc 
dầu vậy không quan sát thấy sự gia tăng đáng 
kể về vận tốc giữa các trụ cầu do ảnh hưởng của 
dòng chảy sông trong khu vực không lớn và do 
vậy các trụ cầu cũng không gây hiện tượng bồi 
lắng hay xói lở sau cầu. Ngược lại đối với 
trường sóng, sự xuất hiện các trụ cầu và mố cầu 
đã cản trở sự lan truyền của sóng vào phía trong 
sông, sóng gần như tắt hẳn ngay phía thượng 
lưu cầu Tùng Luật. 
Công trình kè (đê chắn cát) phía nam tác 
động mạnh mẽ đến cả hướng sóng và dòng 
chảy. Do hướng vuông góc với bờ, kè phía Nam 
đã có tác dụng chắn toàn bộ sóng Đông Nam, 
tạo nên vùng khuất sóng phía trong cửa. Đồng 
thời với việc chắn sóng, kè cũng có tác dụng 
ngăn dòng chảy do sóng dọc bờ hướng từ phía 
Nam lên phía Bắc và kết quả phân tích cho thấy 
kè đã giữ lại một lượng lớn cát ở phía Nam và 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 435‐442 442
do đó đã hạn chế hiện tượng bồi lấp luồng trong 
mùa sóng Đông Nam. Tuy vậy, kè cũng làm 
xuất hiện một số xoáy cục bộ và làm tán xạ 
sóng khiến cho sóng đi thẳng vào mố cầu phía 
Nam, có thể gây hiện tượng sạt lở mố cầu trong 
mùa sóng Đông Bắc. Mặt khác, kè cũng có tác 
dụng đẩy dòng chảy sóng dọc bờ ra xa hơn, 
khiến cho nguồn bùn cát phía Nam ít có cơ hội 
tiếp cận cửa và bãi biển phía bắc Cửa Tùng. Đó 
cũng có thể là một phần nguyên nhân của hiện 
tượng thiếu hụt nguồn trầm tích bãi biển phía 
bắc, làm mất cân bằng cán cân bùn cát và gây 
hiện tượng xói lở bãi biển 
Kết luận 
Qua phân tích tài liệu và kết quả tính toán, 
trường thủy động lực trong khu vực đã có 
những thay đổi mạnh mẽ khi có sự xuất hiện 
của các công trình. Tuy nhiên, các công trình 
khác nhau có những tác động khác nhau trong 
đó tác động của công trình cầu ít rõ nét trong 
khi tác động của đê chắn cát và việc xây dựng 
cảng cá là khá rõ ràng. Đây chính là những 
nguyên nhân dẫn tới những biến đổi bất thường 
về mặt hình thái trong khu vực. Nghiên cứu này 
đặt cơ sở cho việc nghiên cứu đề xuất các biện 
pháp giảm thiểu tác động bất lợi bảo vệ các 
nguồn tài nguyên trong khu vực phục vụ phát 
triển kinh tế xã hội bền vững. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Thọ Sáo, Nguyễn Minh Huấn, Ngô Chí 
Tuấn, Đặng Đình Khá (2010), Biến động trầm 
tích và diễn biến hình thái khu vực cửa sông ven 
bờ Cửa Tùng, Quảng Trị, Tạp chí Khoa học, 
ĐHQGHN, (đã nộp bản thảo tháng 8 năm 2010). 
[2] Cổng thông tin điện tử, UBND tỉnh Quảng Trị 
www.quangtri.gov.vn. 
[3] Danish Hydraulics Institute (DHI). “MIKE21. 
User’s Mannual”. 2007 
[4] Báo cáo khảo sát địa hình-thủy văn. Công ty Tư 
vấn Xây dựng Cảng đường thủy, Hà Nội, 2000. 
[5] Báo cáo khảo sát địa chất công trình, Công ty Tư 
vấn Xây dựng Cảng đường thủy, Hà Nội, 2000.
Assessment of structural impacts on hydrodynamic patterns 
in Ben Hai river mouth and coastal zones, Quang Tri province 
Nguyen Tho Sao1, Tran Ngoc Anh1, Nguyen Thanh Son1, Đao Van Giang2
1Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2Marine Center, General Service for Sea and Islands, MONRE 
This paper describes the scientific researches of structural simpacts on hydrodynamic conditions in 
Ben Hai river mouth and Cua Tung beach, Quang Tri province. These hydrodynamic patterns were 
simulated by using MIKE 21 including hydrodynamics (HD), spectral wave (SW) and sand transport 
(ST) modules. The research results may take a part in analysis of the reasons leading to beach erosion 
and deposition in the study region. It may be served as the good information for planning and 
proposing the suitable training measures for social economical sustainable development.