Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế hiện nay thì nguồn năng lượng dầu mỏ là không thể thiếu, nó chiếm tỷ lệ sử dụng khoảng 40% trong tất cả các nguồn năng lượng trên thế giới. Tuy nhiên nguồn năng lượng này lại có giới hạn, nó không được tái tạo thêm mà ngược lại nó lại được sử dụng ngày càng nhiều. Theo dự đoán thì nguồn năng lượng này chỉ có thể đáp ứng trong vài chục năm nữa. Vì vậy giá cả của nó ngày càng tăng lên là điều khó tránh khỏi. Khi giá xăng dầu tăng thì nó ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành nghề sử dụng nhiều xăng dầu để hoạt động.
16 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: GIỚI THIỆU
1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế hiện nay thì nguồn năng lượng dầu mỏ là không thể thiếu, nó chiếm tỷ lệ sử dụng khoảng 40% trong tất cả các nguồn năng lượng trên thế giới. Tuy nhiên nguồn năng lượng này lại có giới hạn, nó không được tái tạo thêm mà ngược lại nó lại được sử dụng ngày càng nhiều. Theo dự đoán thì nguồn năng lượng này chỉ có thể đáp ứng trong vài chục năm nữa. Vì vậy giá cả của nó ngày càng tăng lên là điều khó tránh khỏi. Khi giá xăng dầu tăng thì nó ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành nghề sử dụng nhiều xăng dầu để hoạt động.
Sau khi trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại quốc tế WTO thì nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bật trong tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh…Nhưng trong những năm gần đây mà đặc biệt là năm 2007 và đầu năm 2008 giá dầu thô trên thế giới tăng một cách nhanh chóng làm cho giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo. Việc giá xăng dầu tăng đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống hàng ngày của người dân, đến quá trình sản xuất của các doanh nghiệp…Vì vậy nó đã tác động rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam, mà trong đó có một số ngành nghề rất nhạy cảm với giá xăng dầu như: khai thác thủy sản, giao thông vận tải…
Từ hai vấn đề trên, đòi hỏi cần có những phương hướng, biện pháp để giảm những tác động xấu do giá xăng dầu tăng. Đó là lý do đề tài nghiên cứu “Đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề của Việt Nam” được thực hiện.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài này là đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề của Việt Nam từ đó đề ra những phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm giảm tác động của nó đối với các ngành này.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Đánh giá những mặt lợi và mặt hại của việc thả nổi giá xăng dầu theo giá thị trường đối với nền kinh tế Việt Nam
Đánh giá tác động của giá xăng dầu đối với ngành khai thác thủy hải sản và ngành giao thông vận tải từ đó đưa ra phương hướng, biện pháp khắc phục những tác động này.
3. Khái quát phương pháp tiến hành đề tài
3.1 Phương pháp thu thập thông tin số liệu
Chủ yếu các thông tin, số liệu là thu thập từ các nguồn:
+ Sách báo, tap chí, truyền hình
+ Inernet qua các trang tìm kiếm: www.google.com.vn, www.gos.vn,… sử dụng các từ khóa có liên quan để đến các trang Wed cần thu thập thông tin.
3.2 Phương pháp xử lý và phân tích thông tin số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả.
So sánh sự biến động của giá xăng dầu qua các năm và tác động của nó đến một số ngành nghề của Việt nam mà chủ yếu là dựa vào các yếu tố chi phí nhiên liệu đầu vào của các ngành, trong đó chủ yếu là xăng dầu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do biến động của giá xăng dầu tác động đến rất nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, và do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không thể đánh giá sâu sắc tất cả các tác động này. Nên phạm vi của đề tài chỉ tập trung vào đánh giá tác động của giá xăng dầu đến một số ngành nghề quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến đầu năm 2008 trong đó chủ yếu là hai ngành: khai thác thủy sản và giao thông vận tải. Phần 2: NỘI DUNG
1. Khái quát về sự biến động của giá xăng dầu trong vài năm trở lại đây
1.1 Sơ lược về sự biến động của giá dầu thô trên thị trường thế giới trong vài năm trở lại đây và nguyên nhân dẫn đến sự biến động này
Từ năm 2005 đến cuối năm 2007 giá dầu thô trên thị trường thế giới đã tăng từ 62USD/thùng lên gần 100USD/thùng (nguồn tổng hợp từ báo tuổi trẻ và vietnamnet). Cũng có lúc trong giai đoạn này thì giá dầu thô thế giới giảm nhưng giảm không nhiều và giảm trong thời gian ngắn và sau đó lại tiếp tục tăng.
Giá dầu thô thế giới trong 3 tháng đầu năm 2008 lại tăng vọt lên hơn 100USD/thùng và trong đợt tăng giá này thì nó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
ÄCung cầu bất quân bình càng lúc càng thêm rõ nét: sản lượng dầu thềm lục địa Bắc Hải giảm nhanh hơn dự báo. Bạo động ở Algeria, Nigeria, Venezuela…góp phần đánh sụt lượng cung dầu thô. Cung giảm không cân đối được cơn khát dầu gia tăng theo cường độ bùng nổ tăng trưởng của hai nhóm N4 (chủ lực là Trung Quốc và Ấn Độ) và N11 (dẫn đầu là ASEAN).
ÄTheo Thượng Viện Mỹ mà cụ thể là Fadel Gheit khẳng định 40% giá dầu bị chồng thêm bởi yếu tố đầu cơ. Do giá không ngừng leo thang, các công ty hàng không quốc tế rót khoản tiền khổng lồ vào mua các “option” ở thị trường dầu tương lai, bảo đảm ngưỡng giá 100USD/thùng ổn định đến tháng 3 năm 2009. Không riêng lĩnh vưc hàng không, các công ty chuyên doanh năng lượng (dầu & khí đốt) cùng thành phần kiếm lời thông qua mua bán chứng khoán tương lai, tích cực khuấy động giá dầu thô. Khoảng 10.000 giao dịch thực hiện trong tháng 11/2007, tăng đột biến lên hơn 25.000 vài ngày đầu năm 2008.
ÄSau hết, không kém quan trọng là đồng đôla tuột giá lại tác đông làm tăng giá dầu thô thế giới vì dầu thô lấy USD làm bản vị.
1.2 Sơ lược biến động của giá xăng dầu ở Việt Nam trong vài năm trở lại đây và nguyên nhân dẫn đến sự biến động này
1.2.1 Sơ lược biến động của giá xăng dầu ở Việt Nam trong vài năm trở lại đây
Từ năm 2005 đến cuối năm 2007 thì giá xăng dầu trong nước cũng biến động tăng nhưng mức tăng này vẫn thấp hơn so với thị trường thế giới là do chính sách trợ giá bù lỗ của Nhà Nước. Việc tăng giá là do Nhà Nước quyết định và công bố. Ví dụ như biến động của giá dầu DO từ năm 2005 đến đầu năm 2008 thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1:Biến động giá dầu DO từ năm 2005 đến nay
Đơn vị tính: Đồng/lít
Thời gian giữ mức giá
Giá
17/08/2005 – 27/04/2006
7.500
27/04/2006 – 09/08/2006
7.900
09/08/2006 – 01/2007
8.600
01/2007 - 22/11/2007
8.700
22/11/2007 – 25/02/2008
10.200
25/02/2008 đến nay
13.900
(Nguồn tổng hợp từ báo tuổi trẻ)
Mốc quan trọng là vào ngày 25/02/2008. Giá xăng dầu đã được Nhà Nước cho thả nổi theo giá thị trường. Theo nghị đinh 55 thì giá xăng dầu đã được giao cho doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh. Từ thời điểm này các doanh nghiệp nhập khẩu, kinh doanh xăng dầu chính thức nhận quyền này, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp và người dân phải chấp nhận sống chung với biến động của thị trường thế giới và sau ngày 25/02 thì giá xăng dầu cụ thể là:
Xăng A92 tăng từ 13.300đ/lít lên 14.500đ/lít
Xăng A95 tăng lên 14.800đ/lít
Dầu Diesel 0,25S tăng từ 10.200đ/lít lên 13.900đ/lít
Dầu madut tăng từ 8.500đ/lít lên 9.500đ/lít
Dầu Diesel 0,5S tăng lên 13.950đ/lít
1.2.2 Nguyên nhân chủ yếu để Nhà Nước đưa ra quyết định thả nổi giá xăng dầu theo giá thi trường
Giá dầu thô thế giới đang tăng cao ở mức kỷ lục mà Việt Nam vẫn chưa sản xuất được xăng dầu phục vụ cho thị trường trong nước. Phải đến giữa năm 2009, khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động thì chúng ta cũng mới có thể đáp ứng được một phần nhu cầu (khoảng 6,5 triệu tấn/năm trong tổng nhu cầu là 13,5 triệu tấn/ năm).
Nhà Nước không thể bao cấp mà để doanh nghiệp tự hạch toán độc lập. Ví dụ như chỉ riêng năm 2007, số tiền bù lỗ chi kinh doanh xăng dầu lên đến 11.000 tỷ đồng. Đây là số tiền rất lớn, thay vì phải tập trung bù lỗ cho doanh nghiệp thì Nhà Nước có thể làm kinh phí cho chăm lo cộng đồng, hỗ trợ người nghèo, vùng khó khăn, vung sâu, vùng xa…
Nếu tiếp tục bao cấp về xăng dầu thì Nhà Nước vô tình bao cấp cho các doanh nghiệp nước ngoài và bao cấp luôn các nước láng giềng do tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới không thể kiểm soát nổi.
2.Đánh giá tác động của giá xăng dầu đối với nền kinh tế Việt Nam
2.1 Những mặt lợi và mặt hại của việc thả nổi giá xăng dầu theo giá thị trường đối với nền kinh tế Việt Nam
2.1.1 Những mặt lợi
Về mặt vĩ mô, Nhà Nước từ nay sẽ không phải đau đầu với con số hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm để bù lỗ hỗ trợ doanh nghiệp. Nguồn tiền lớn này thay vì hỗ trợ gián tiếp cho doanh nghiệp thì từ nay sẽ hỗ trợ trực tiếp đến người dân chịu sức ép của tăng giá xăng dầu.
Bên cạnh đó hàng loạt thành quả được tạo ra khi Nhà nước không phải mất công, mất sức chống buôn lậu, ngăn ngừa tình trạng “bao cấp ngược” cho thị trường khu vực và các doanh nghiệp nước ngoài hưởng lợi từ bao cấp giá.
Từ nay doanh nghiệp cũng hoàn toàn chủ động trong kinh doanh mà không phải chạy theo chính sách; ngược lại, cơ quan quản lý không phải can thiệp vào doang nghiệp bằng những mệnh lệnh hành chính.
Bên cạnh đó, thị trường cơ bản có được môi trường cạnh tranh mà ở đó doanh nghiệp buộc phải đổi mới quản lý, tiết kiệm chi phí; còn người tiêu dùng thì phải tiết kiệm tiêu dùng, được lựa chọn mức giá cạnh tranh…
2.1.2 Những mặt hại
Các doanh nghiệp vân tải, với hàng ngàn lít xăng tiêu thụ mỗi ngày, số tiền bội chi nhân với 1.500đ/lít đã là con số rất lớn. Chưa hết, phần đông đối tượng là nông dân, ngư dân đang sử dụng số lượng lớn dầu cho sản xuất, đánh bắt xa bờ… cũng sẽ oằn vai với số bội chi tới 3.700 đồng/lít dầu.
Bên cạnh đó các chuyên gia cũng đưa ra cảnh báo bởi gần như chắc chắn, hàng loạt các lĩnh vực kinh doanh khác có sử dụng xăng dầu cũng sẽ tăng giá trong tương lai gần.
Đặc biệt với ba ngành than, điện, xi măng, việc khống chế giá đầu ra trong khi chi phí đầu vào tăng vọt sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phải chịu sức ép rất lớn. Điều đó cũng sẽ làm cho các doanh nghiệp này hoạt động kém hiệu quả, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chung.
Giá xăng dầu tăng cũng sẽ tác động tiêu cực về mặt tâm lý. Như chúng ta đã biết yếu tố tam lý luôn gây phản ứng dây chuyền đội giá của các hàng hóa, dịch vụ khác đối với dân chúng theo vòng luân chuyển tiếp theo. Tác động tâm lý này trên thực tế lại xảy ra với thị trường Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so với những dự liệu.
2.2 Tác động của giá xăng dầu đối với ngành khai thác thủy hải sản
Chưa bao giờ những chủ phương tiện đánh bắt thủy hải sản phải vất vả trước “cơn bão giá” như hiện nay. Xăng dầu tăng giá kéo theo hàng loạt dịch vụ nghề biển tăng theo… gây bất lợi cho những người sống bằng nghề khai thác biển. Hiện đã có không ít phương tiện khai thác xa bờ phải ngưng hoạt động. Tháng 1 năm 2007 giá dầu tăng lên 8.700đ/lít, ngày 22/11/2007 tăng vọt lên 10.200đ/lít (tăng 17%) và đến 25/02/2007 tăng lên 13.900đ/lít chỉ một năm mà giá dầu tăng lên 59,77% không chỉ mọi người ngỡ ngàng mà còn góp phần đẩy những phương tiện lẫn ngư dân khai thác nghề biển lâm vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Biết rằng mặt hàng xăng dầu là mặt hàng rất quan trọng trong nghề đi biển, vì vậy khi tăng giá xăng dầu đã tác động dây chuyền đến nhiều mặt hàng khác. Sau đây là điển hình ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau về nỗi khỗ của ngư dân sau khi giá dầu tăng lên 13.900đ/lít:
2.2.1.Tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh Sóc Trăng hiện có trên 1.000 tàu khai thác thủy hải sản, trong đó có 270 tàu khai thác xa bờ, mỗi tàu khai thác xa bờ phải tốn chi phí nhiên liệu cho mỗi chuyến ra khơi từ 10.000 đến 15.000 lít dầu, như vậy chi phí nhiên liệu tăng thêm bình quân cho mỗi chuyến khoảng 40 triêu đồng. Các tàu có công suất dưới 90 mã lực (CV) hoặc tương đương khai thác ngắn hạn trên biển cũng tiêu tốn từ 2.500 đến 3.000 lít dầu và chi phí tăng thêm cho mỗi chuyến từ 6 đến 7 triệu đồng so với thời điểm áp dụng giá xăng dầu gần đây. Cái khó là ngư dân không thể chủ động điều chỉnh giá khai thác được. Giá các mặt hàng thủy sản từ sau tết Nguyên đán đến nay chỉ tăng từ 250 đồng đến 800 đồng một Kg, mức tăng này không thể bù đắp được chi phí xăng dầu, các chi phí hàng hóa thiết yếu, trong đó có nước đá cũng tăng theo do chi phí vận chuyển tăng. Sự tăng giá đồng loạt như vậy khiến cho hầu hết các tàu thuyền khai thác loại vừa và nhỏ phải neo đậu, chờ giá hải sản tăng thêm để bù đắp chi phí nhiên liệu đầu vào.
Theo ông Lư Tấn Hòa, phó chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Sóc Trăng: trong những ngày đầu tháng 3/2008 thì tại khu vực cảng Trần Đề có từ 60 đến 70% tàu khai thác thủy sản của Sóc Trăng phải nằm bờ chưa ra khơi khai thác. Lý do nằm bờ thì vẫn là giá xăng dầu tăng trong thời gian qua đã ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất, dịch vụ vận chuyển của ngư dân. Riêng hoạt động khai thác biển lại không thể chủ động tăng giá sản phẩm, phần lớn tàu thuyền khai thác biển phải neo đậu tại bến để chờ giá hải sản nhích lên để bù đắp giá dầu tăng cao.
Với một số tàu tiếp tục hoạt động thì để có lãi là không nhiều, mức thu nhập của ngư phủ cũng bị giảm theo. Nếu như trước đây, chủ tàu chi cho ngư phủ trong khoảng 40% lợi nhuận, thì nay mức chi này chỉ còn 30% đến 35%. Nhiều ngư phủ chuyển sang các tàu khai thác có công suất lớn, các tàu có công suất vừa và nhỏ thiếu ngư phủ trong khai thác.
2.2.2 Tỉnh Cà Mau
Xăng dầu tăng giá, mỗi tàu đánh bắt xa bờ ở tỉnh Cà Mau phải tăng thêm chi phí từ 20 triệu đến 70 triệu đồng trở lên cho một chuyến ra khơi. Mà trong khi Cà Mau hiện có 1.137 phương tiện đánh bắt xa bờ thì chi phí tăng khoảng từ 22.740 đến 79.590 triệu đồng. Nhiều ngư dân đang phân vân “giữa hai dòng nước” nếu tiếp tục ra khơi thì sẽ nắm chắc phần lỗ lã, bằng không thì lấy gì để mưu sinh và trả nợ. Đây thật sự là một bài toán khó cho ngư dân. Mọi thứ điều tăng, trong khi giá hải sản thì không tăng, do bị các tư thương ép giá để bù đắp cho khoản chi phí xăng dầu trong những chuyến đi thu mua. Trước thực trạng này, không ít chủ tàu tuyên bố sẽ chuyển nghề hoặc đợi đến khi dầu sụt giá mới dám ra khơi đánh bắt. Việc làm của hàng chục ngàn bà con lao động nghề biển cũng sẽ bị lung lai.
Ông Nguyễn Hoàng Thiên, trưởng ban thủy sản thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, Cà Mau cho biết: Nếu chủ phương tiện trả tiền công dưới mức 40% trên tổng doanh thu sẽ không thuê được lao động đi biển. Nhưng để có tổng doanh thu từ 70 triệu đồng trở lên/chuyến không phải tàu nào cũng đạt được. Cho nên, nhiều tàu câu mực tạm ngưng hoạt động do thua lỗ. Còn đối với nghề cào khơi, chi phí đầu tư sản xuất còn cao hơn. Một tàu đánh bắt xa bờ công xuất 250CV sau chuyến đi biển 30 ngày phải đầu tư hơn 300 triệu đồng thì nay phải tăng thêm 70 triệu đồng/tàu/chuyến. Trong khi đó, sản lượng khai thác thủy sản không tăng, thậm chí còn giảm do nguồn lợi thủy sản ngày càng suy kiệt, cá tạp, cá phân thường chiếm từ 60% sản lượng thủy sản đánh bắt, trong khi tôm, cá hàng hóa có giá trị kinh tế cao chỉ chiếm 6 đến 10%.
2.2.3 Tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu hiện có hơn 1000 tàu đánh bắt thủy sản ngoài khơi. Khi giá dầu tăng lên 13.900 đồng/lít thì các chủ tàu khó khăn nay lại càng khó khăn thêm. Theo ông Lê Hiền, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân huyện Đông Hải Tỉnh Bạc Liêu thì riêng ở huyện Đông Hải hiện có khoảng 375 phương tiện đánh bắt xa bờ ngưng hoạt động và thêm nhiều tàu tiếp tục nằm bờ mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là do dầu tăng giá, từ tháng cuối năm 2007 đến nay, phần lớn ngư dân rơi vào tình trạng thua lỗ sau các chuyến đi biển, tàu nào hiệu quả nhất chỉ đủ khả năng hòa vốn là giỏi. Ngay cả ngư dân khai thác thủy sản trước kia ăn chia theo tỷ lệ lợi nhuận nay không còn dám đi biển theo hình thức chia trên, vì ngày công nhiều mà khai thác không có bao nhiêu, theo đó yêu cầu chủ tàu trả lương theo ngày công. Nếu ăn chia theo tỷ lệ lợi nhuận thì có nguy cơ trắng tay sau nhiều ngày cực lực trên biển. Trước đây theo thông lệ thỏa thuận miệng các tàu chuẩn bị xuất bến ra biển khai thác thì đã được các đại lý xăng dầu bán thiếu, khi nào về bán cá xong mới thanh toán. Nay dầu lên giá, các đại lý không kham nổi và không bán thiếu. Do đó nhiều chủ tàu không có vốn phải cho tàu nằm bờ. Các chủ tàu thì mệt mỏi còn ngư dân không ai thuê “ thất nghiệp dài dài” đời sông rơi vào cảnh khó khăn hơn.
2.3 Tác động của giá xăng dầu đối với ngành giao thông vận tải
2.3.1 Ngành vận tải đường sắt
Ngành vận tải đường sắt lao đao vì chi phí nhiên liệu tăng. Theo ông Nguyễn Hữu Tuyên, trưởng ban vận tải, tổng công ty Đường Sắt Việt Nam thì trong vận tải đường sắt, chi phí nhiên liệu của toàn ngành là 610 tỷ đồng, nay đã đội lên 800 tỷ đồng. Nguyên nhân do giá dầu tăng từ 10.200 đồng lên 13.900 đồng/lít, tăng 36%. Trong bối cảnh này, giá thành vận tải đường sát bị đẩy lên buộc tổng công ty phải tính toán cân đối lại giá cước. Hiện nay, ngoài việc yêu cầu các đơn vị thành viên thực hiện triệt để tiết kiệm, cắt giảm tối đa chi phí, tổng công ty cũng đang tính toán để điều chỉnh giá cước vận tải hành khách và hàng hóa. Bởi đó là giải pháp đảm bảo kinh doanh vận tải không bị lỗ. Mà cái khó của ngành Đường sắt là vé tàu khách thì đã bán trước vài dài ngày, còn cước vận tải hàng hóa thì đã ký hợp đồng cả năm với các chủ hàng. Việc thương thảo lại với các chủ hàng là không dễ. Hiện tổng công ty đang nghiên cứu để điều chỉnh giá vé, giá cước cho hợp lý. Tuy nhiên không thể tăng ngay một lúc 20% như giá nhiên liệu. Trước mắt giá cước vận tải đường sắt chỉ có thể tăng khoảng 7%.
2.3.2 Ngành vận tải đường bộ
Trước sức ép của việc tăng giá xăng dầu thì việc tăng giá vé, giá cước vận tải là chuyện sớm muộn, và người dân buộc phải chi thêm tiền cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa. Thí dụ như tại quầy vé cùa bến xe miền Đông vào ngày 5 tháng 3, các bảng niêm yết giá thì giá cước cũ bị giá cước mới dán chồng lên. Việc tăng giá vé xuất hiện đồng loạt ở các tuyến từ TP HCM đi các tỉnh Ninh Thuận, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Định, Hà Nội… việc tăng giá vé trên là đúng theo nhận định của nhiều người; tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ việc dán bảng giá mới mà không thông báo, giải thích đã làm nhiều hành khách bực dọc.
Tương tự như bến xe miền Đông thì tại bến xe miền Tây giá vé cũng tăng. Công ty xe khách miền Tây, Công ty vận tải Trà Vinh và Công ty vận tải Đồng Tháp đã tăng giá vé. Mức tăng trung bình khoảng 20%. Cụ thể, tuyến TP HCM – Cần Thơ từ 44.000 đồng/vé lên 52.000 đồng/vé; TP HCM – Cao Lãnh từ 40.000 đồng/vé lên 45.000 đồng/vé; TP HCM – Trà Vinh tăng từ 50.000 đồng lên 60.000 đồng; TP HCM – Cà Mau từ 83.000 đồng lên 98.000 đồng… Theo bà Hà Thị Yến, phó tổng giám đốc bến xe miền Tây, giá vé của các doanh nghiệp dịch vụ trung chuyển khách tăng mạnh hơn các doanh nghiệp khác.
3. Những phương hướng và biện pháp khắc phục những vấn đề trên
3.1 Chính sách chung
Gần đây khi Nhà nước cho các doanh nghiệp tự quyết định giá xăng dầu thì Bộ Công Thương kiến nghi với chính phủ về một số giải pháp mới nhằm bình ổn thị trường, giá cả. Theo đó các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, sắt thép… Được tự định giá bán nhưng phải cam kết ổn định ít nhất trong vòng một quí.
Ngoài ra, trong điều kiện thị trường biến động bất thường, Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp cấp bách nhằm ổn định thị trường. Các cơ quan quản lý có quyền tạm thu hồi giấy phép hoạt động của doanh nghiệp khi phát hiện doanh nghiệp bán giá cao bất hợp lý.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đề nghi chính phủ cho phép áp dụng việc yêu cầu doanh nghiêp kinh doanh xăng dầu, sắt thép… đăng ký giá bán với cơ quan quản lý bằng văn bản thông báo giá. Các doanh nghiệp công bố công khai giá bán và bán theo đúng giá này.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốc độ tăng giá, Chính Phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, linh hoạt; Chính phủ cũng sẽ có các biện pháp đảm bảo cho thị trường bất động sản tiếp tục phát triển lành mạnh, có kiểm soát và chống đầu cơ trong lĩnh vực này.
Trong đợt điều chỉnh này, Liên bộ cũng nhận định rằng đối tượng chịu áp lực lớn hơn là những hộ gia đình khó khăn tai các địa bàn vùng sâu, vùng xa… theo đó, một cơ chế hỗ trợ cũng được ban hành đi kèm với đợt điều chỉnh này. Cụ thể là: Chính phủ sẽ trung hỗ trợ cho nhóm những người bị tác động trực tiếp, nhiều nhất từ việc xăng dầu tăng giá và cho người nghèo, như mở rộng diện hỗ trợ và cấp không thu tiền dầu cho các hộ dân ở các địa bàn chưa có điện lưới, cho các đồng bào dân tộc thiểu số và thuộc diện chính sách; nâng mức bảo trợ bảo hiểm y tế cho người nghèo; giảm thuế trong lĩnh vực nông nghiệp; hỗ trợ thay phương tiện giảm thiểu chi phí nguyên liệu đối với đánh bắt xa bờ; thực hiện các cơ chế cho vay ưu đãi…
Bên cạnh những chính sách và biện pháp trên thì Nhà nước cần đầu tư để tìm những nguồn năng lượng thay thế như: biodiesel, điện nguyên tử, hydrogen, nhiên liệu sinh học, năng lượng mặt trời, năng lượng gió…
3.2 Chính sách, biện pháp đối với ngành