Một doanh nghiệp nếu không có định hướng phát triển kinh doanh cũng
giống như một con thuyền mất liên lạc giữa đại dương, chiến lược phát triển kinh
doanh định hướng cho đơn vị đi về đâu và làm gì để đạt được hiệu quả cao nhất.
Hiện nay kinh doanh bảo hiểm đang diễn ra ngày càng sôi động, các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm mới ra đời ngày càng nhiều. Nhiều doanh nghiệp
bảo hiểm lớn trên thếgiới đã và sẽ mở rộng hoạt động tại Việt Nam, vì vậy việc
nắm vững thông tin thị trường và đề ra giải pháp phát triển đúng đắn là yếu tố
quyết định thành công trong kinh doanh của các công ty bảo hiểm địa phương
nói riêng và của tập đoàn nói chung.
Định hướng chiến lược phát triển xuấtphát từ mong muốn của Hội đồng
quản trị, Ban Tổng giám đốctập đoàn và Ban giám đốccủa các công ty thành
viên, nhưng giải pháp chiến lược và kế hoạch thực hiện chiến lược phải được
xây dựng từ các đơn vị cơ sở, bám sát vào điều kiện thực tế củathị trường, tập
quán tiêu dùng sản phẩm dịch vụ từng địa phương, do vậy việc xây dựng các
giải pháp chiến lược và biện pháp thực hiện kế hoạch tại cáccông ty bảo hiểm
địa phương là rất quan trọng.
95 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng kinh doanh bảo hiểm và các yếu tố môi trường tác động đến kinh doanh bảo hiểm tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Một doanh nghiệp nếu không có định hướng phát triển kinh doanh cũng
giống như một con thuyền mất liên lạc giữa đại dương, chiến lược phát triển kinh
doanh định hướng cho đơn vị đi về đâu và làm gì để đạt được hiệu quả cao nhất.
Hiện nay kinh doanh bảo hiểm đang diễn ra ngày càng sôi động, các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm mới ra đời ngày càng nhiều. Nhiều doanh nghiệp
bảo hiểm lớn trên thế giới đã và sẽ mở rộng hoạt động tại Việt Nam, vì vậy việc
nắm vững thông tin thị trường và đề ra giải pháp phát triển đúng đắn là yếu tố
quyết định thành công trong kinh doanh của các công ty bảo hiểm địa phương
nói riêng và của tập đoàn nói chung.
Định hướng chiến lược phát triển xuất phát từ mong muốn của Hội đồng
quản trị, Ban Tổng giám đốc tập đoàn và Ban giám đốc của các công ty thành
viên, nhưng giải pháp chiến lược và kế hoạch thực hiện chiến lược phải được
xây dựng từ các đơn vị cơ sở, bám sát vào điều kiện thực tế của thị trường, tập
quán tiêu dùng sản phẩm dịch vụ từng địa phương, do vậy việc xây dựng các
giải pháp chiến lược và biện pháp thực hiện kế hoạch tại các công ty bảo hiểm
địa phương là rất quan trọng.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng hoạt động của công ty Bảo hiểm Bình Dương
trong thời gian qua; Những điểm mạnh điểm yếu so với các đối thủ cạnh tranh.
- Đánh giá được các yếu tố môi trường kinh doanh và các hoạt động
Maketing đã và đang tác động đến công ty
- Đánh giá được thực trạng phát triển của từng loại hình bảo hiểm trong
thời gian qua.
- Đưa ra được những mục tiêu, định hướng phát triển phù hợp với công ty
trong giai đoạn sắp tới. Đồng thời, kèm theo các giải pháp để thực hiện mục tiêu
định hướng trên một cách khả thi.
3. Phương pháp nghiên cứu
Do đây là một đề tài nghiên cứu ứng dụng nên phương pháp nghiên cứu
chủ yếu ở đây là sử dụng các mô hình lý thuyết về quản trị chiến lược trong một
công ty để vận dụng vào điều kiện cụ thể của một doanh nghiệp nhằm hoạch
định được các chiến lược phát triển cho doanh nghiệp đến năm 2015.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như phân tích thống kê, so sánh và
tổng hợp số liệu, phương pháp dự báo…
4. Phương pháp thu thập thông tin và xử lý số liệu
- Các thông tin thứ cấp, bao gồm các số liệu về tài chính, về hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty hay của Ngành bảo hiểm, các thông tin về xã hội,
môi trường sẽ được thu thập thông qua các báo cáo, các tài liệu khác như sách
báo, tạp chí thống kê…
- Các thông tin sơ cấp sẽ được thu thập thông qua điều tra trực tiếp. Cụ thể
là thông qua phỏng vấn đối với một số chuyên gia, quản trị viên của công ty và
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận chung.
Chương 2: Đánh giá thực trạng kinh doanh bảo hiểm và các yếu tố
môi trường tác động đến kinh doanh bảo hiểm tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Phát triển công ty Bảo Hiểm Bình Dương đến năm 2015.
Kết luận
]CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm và sự ra đời của bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm bảo hiểm: Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro,
được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài
chính, nhân mạng,…Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro
tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo
hiểm.
Định nghĩa bảo hiểm: Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông
qua đó một cá nhân hay một tổ chức (người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng
góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác (người bảo
hiểm) để đổi lấy những cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có
sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra.
Theo khái niệm và định nghĩa trên cho phép ta xác định quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên. Quyền lợi của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược
lại. Người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí và nhận quyền lợi theo cam
kết trong hợp đồng. Người bảo hiểm được thu phí và thực hiện các cam kết bồi
thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi có sự kiện
quy định xảy ra.
1.1.2. Sự ra đời và Phát triển của bảo hiểm
Cho đến nay, chưa ai có thể xác định chính xác nguồn gốc bảo hiểm bắt
đầu từ đâu. Những điều được mọi người công nhận là: Các hoạt động sơ khai,
mang tính bảo hiểm có từ rất lâu nhầm bảo đảm lợi ích cho con người. Những
hình thức sơ khai đầu tiên đó là:
¾ Hình thức dự trữ thuần túy: Những bằng chứng lịch sử cho thấy từ rất
xa xưa cho đến nay con người đã ý thức được tự bảo vệ để tồn tại mà vấn đề đầu
tiên là dự trữ thức ăn kiếm được phòng khi rủi ro. Sau đó ý thức này phát triển
thành dự trữ có tổ chức để tránh thiên tai.
¾ Hình thức cho vay nặng lãi: Dự trữ thuần túy không thể giải quyết
đầy đủ nhu cầu của con người khi xã hội phát triển. Nhà kinh doanh cần một số
tiền lớn để đầu tư thì không thể tích góp tiền dần dần được. Một hình thức mới
để giải quyết vấn đề là hình thức cho vay nặng lãi. Hình thức này rất là hà khắc,
song vì nhu cầu cần tiền và kinh doanh thời ấy mang lại lãi suất cao nên các nhà
đầu tư phải chấp nhận, sau đó, hình thức này bị bát bỏ và các hình thức khác ra
đời.
¾ Hình thức cổ phần: mỗi người đóng góp một phần vào chuyến hàng
kinh doanh và chịu trách nhiệm theo phần đóng góp đó. Nếu chuyến hàng chẳng
may gặp rủi ro thì hậu quả cũng được chia xẻ cho nhiều người. Hình thức cổ
phần có khuyết điểm là phải kêu gọi nhiều người tham gia và phải dàn xếp thỏa
thuận chia xẻ trách nhiệm và quyền lợi. Để giải quyết vấn đề, một hình thức
tiên tiến nhất ra đời đó là hình thức bảo hiểm.
¾ Hình thức bảo hiểm: Một bên là nhà buôn (chủ tàu). Chủ tàu chấp
nhận trả một khoản tiền nhất định, nếu hàng hóa tàu thuyền không đến được nơi
giao nhận do một số nguyên nhân nhất định thì bên thứ hai (người bảo hiểm) sẽ
trả cho bên thứ nhất một khoản tiền nhằm bù đắp cho khoản thiệt hại xảy ra.
Bảo hiểm hàng hải cũng chính là sự khởi đầu của ngành bảo hiểm. Sau loại hình
bảo hiểm trên là bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm nhân thọ ra đời. Đến cuối thế
kỷ thứ 19, cùng với sự phát triển của ngành đại công nghiệp cơ khí, hàng loạt
các nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện và phát triển rất nhanh: Bảo hiểm ô tô;
Bảo hiểm máy bay; Bảo hiểm trách nhiệm dân sự…
Ngày nay, bảo hiểm đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã
hội. Ngành bảo hiểm thương mại đang giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển.
Ở nước ta, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo hiểm Việt Nam trước
đây) gọi tắt là Bảo Việt ra đời từ ngày 15/01/1965 là doanh nghiệp bảo hiểm
Đầu tiên của nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Đến nay, năm 2006, cả nước
đã có 16 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 8 công ty bảo hiểm nhân thọ, một công
ty tái bảo hiểm, 7 công ty môi giới và 3 văn phòng đại diện tái bảo hiểm. Tổng
doanh thu phí bảo hiểm hàng năm hiện nay trên 15 nghìn tỷ đồng… Dự báo trong
tương lai ngành Bảo hiểm Việt Nam sẽ còn trên đà phát triển, thị trường bảo
hiểm Việt Nam còn đầy tiềm năng.
1.2. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm
1.2.1.Thị trường và các chức năng của thị trường
Theo nghĩa rộng, thị trường là lĩnh vực của sự trao đổi và lưu thông hàng
hóa. Trên thị trường diễn ra các hoạt động mua - bán và trao đổi các sản phẩm
hàng hóa, dịch vu.
Đối với một doanh nghiệp, họat động của họ thường gắn liền với một thị
trường sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Đó là nơi đảm bảo các yếu tố đầu
vào giải quyết các vấn đề đầu ra cho sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp
thường không quan tâm đến thị trường nói chung mà chỉ quan tâm đến thị trường
sản phẩm của doanh nghiệp. Nói một cách khác, vấn đề cơ bản mà các nhà kinh
doanh quan tâm đến thị trường chính là những người mua hàng và nhu cầu của
họ về những hàng hóa của doanh nghiệp.
Cũng cần phải nói thêm rằng, một doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường
khi với tư cách của người mua, lúc với tư cách của người bán. Chính vì lẽ đó, quá
trình nghiên cứu thị trường đối với các doanh nghiệp chính là nghiên cứu khách
hàng.
Thị trường là môi trường chủ yếu cho các hoạt động kinh doanh, gắn liền
với hoạt đông mua - bán, trao đổi hàng hóa. Thị trường hình thành và phát triển
cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và thực hiện những chức năng
cơ bản sau đây:
- Chức năng thừa nhận và thực hiện:
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của thị trường. Khi hoạt động
mua - bán và trao đổi diễn ra, điều đó đồng nghĩa với việc thị trường thực hiện
chức năng này.
- Chức năng điều tiết:
Thông qua các qui luật kinh tế, thị trường thực hiện chức năng điều tiết
của mình. Quá trình điều tiết này diễn ra cả ở hai thái cực: Điều tiết sản xuất và
điều tiết tiêu dùng xã hội. Thị trường có thể làm thay đổi mặt hàng tiêu dùng
cũng như cơ cấu tiêu dùng của dân cư. Với sự tác động của thị trường, người tiêu
dùng sẽ cân nhắc, tính toán để gia tăng lợi ích của mình, cũng như sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các nguồn lực xã hội.
- Chức năng thông tin:
Thị trường được coi là nơi chứa đựng các thông tin cần thiết cho cả nhà
kinh doanh và giới tiêu dùng xã hội.
Đối với các doanh nghiệp, quá trình nghiên cứu thị trường giúp họ nắm
bắt những thông tin cần thiết.
Đối với người tiêu dùng, thị trường là nơi đáp ứng các lợi ích nhằm thỏa
mãn nhu cầu của họ.
1.2.2. Các đặc điểm chủ yếu của thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi và mua - bán
các sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu đảm sự bảo an toàn trong cuộc sống
của mọi tầng lớp dân cư. Thị trường của một công ty bảo hiểm chính là những
khách hàng thực tế và khách hàng tiềm năng của công ty đó. Thị trường bảo
hiểm có những đặc điểm hoạt động và chịu sự tác động của các qui luật thị
trường giống như thị trường các sản phẩm khác. Tuy nhiên, do đặc tính của sản
phẩm và môi trường kinh doanh hiện tại, thị trường bảo hiểm ở nước ta có những
đặc điểm riêng biệt, cần chú ý khi nghiên cứu:
¾ Về chủ thể tham gia thị trường, người bán là các công ty bảo hiểm,
người mua có thể là các cá nhân hoặc các tổ chức. Nhu cầu của người mua rất
phong phú và đa dạng, khả năng thanh toán cũng có sự khác biệt.
¾ Nhu cầu trên thị trường bảo hiểm tăng trưởng cùng với sự phát triển
kinh tế, thu nhập và mức sống của dân cư. Trong các nhân tố ảnh hưởng mạnh
mẽ đến thị trường bảo hiểm trước hết phải kể đến nhân tố kinh tế. Sự phát triển
kinh tế và mức sống dân cư kéo theo sự phát triển nhu cầu các sản phẩm bảo
hiểm.
¾ Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam diễn ra ngày một quyết
liệt: Từ khi đổi mới kinh tế với sự đa dạng hóa các thành phần kinh tế và mở
cửa, hội nhập kinh tế thế giới, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã xuất hiện nhiều
công ty kinh doanh bảo hiểm. Do đó, việc cạnh tranh thị trường bảo hiểm là một
điều tất yếu.
¾ Trên thị trường bảo hiểm, các doanh nghiệp vừa cạnh tranh nhau, lại
vừa tìm cách liên minh nhau và phân chia thị trường. Đây là đặc điểm của kinh
doanh khi sự cạnh tranh thị trường đã trở nên quyết liệt và mỗi công ty đều
chiếm giữ những ưu thế nhất định. Tuy nhiên, sự liên minh này gây tổn hại đến
lợi ích người tiêu dùng và chỉ có thể thực hiện được khi có sự can thiệp của
Chính phủ vào thị trường, cũng như phong trào bảo hộ quyền lợi khách hàng.
¾ Thị trường bảo hiểm trong nước có quan hệ mật thiết với thị trường bảo
hiểm quốc tế thông qua họat động tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm là một loại hình
nghiệp vụ mà người bảo hiểm này nhượng lại cho những người bảo hiểm khác
một phần phí bảo hiểm qua hợp đồng tái bảo hiểm. Chính nhờ hoạt động tái bảo
hiểm mà hình thành các mối quan hệ giữa các công ty bảo hiểm của các quốc
gia. Sự thông thương thị trường trong nước và thị trường thế giới, đòi hỏi các hoạt
động kinh doanh và hoạt động Markerting nói riêng của các công ty bảo hiểm
phải đảm bảo tính chuẩn mực, thống nhất mang tính quốc tế hóa cao.
¾ Thị trường bảo hiểm chịu sự quản lý và chi phối chặt chẽ của Nhà nước
thông qua Luật Bảo hiểm và các qui định khác. Luật kinh doanh bảo hiểm là
công cụ quan trọng nhất để nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình với
thị trường bảo hiểm. Ngoài ra, Bộ Tài Chính, các Bộ và cơ quan ngang Bộ khác,
Ủy ban nhân dân các cấp, bằng các Thông tư, Chỉ thị của mình thực hiện việc
quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo quyền hạn được phân cấp.
1.3. Vai trò của bảo hiểm và môi trường kinh doanh bảo hiểm
1.3.1. Vai trò của ngành kinh doanh BH trong đời sống kinh tế xã hội
Bảo hiểm là một hoạt động kinh tế quan trọng trên cơ sở xây dựng quỹ
bảo hiểm để bồi thường những tổn thất về người và tài sản. Bảo hiểm có nhiều
chức năng như: Đề phòng, hạn chế tổn thất, bồi thường thiệt hại, hỗ trợ cho sản
xuất, ổn định đời sống nhân dân, tập trung vốn để xây dựng kinh tế. Bảo hiểm là
một sản phẩm dịch vụ của sự phát triển kinh tế, đồng thời là thước đo cho sự
phát triển của nền kinh tế. Quỹ dự trữ bảo hiểm là một nguồn vốn lớn để đầu tư
phát triển kinh tế. Do đó, bảo hiểm là một khâu không thể thiếu được trong nền
kinh tế quốc dân, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế ở nước ta.
Tác dụng của bảo hiểm ở nước ta thể hiện trong những mặt dưới đây:
- Bảo hiểm có tác dụng đảm bảo cho sự ổn định đời sống kinh tế. Nước ta
hàng năm xảy ra nhiều vụ thiên tai, nhờ có bảo hiểm mà các nhà doanh nghiệp,
các tổ chức, dân cư… được bồi thường kịp thời, không làm gián đoạn sản xuất.
- Bảo hiểm có lợi cho việc thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế. Chỉ có tham
gia bảo hiểm các doanh nghiệp mới có thể chuyển rủi ro cho nhà bảo hiểm
nhằm bảo đảm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi.
- Bảo hiểm có lợi cho việc thực hiện bảo toàn vốn vay của các ngân hàng
thương mại một cách thuận lợi khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng bị tai nạn
rủi ro. Nếu doanh nghiệp nào có tham gia bảo hiểm thì doanh nghiệp đó dễ dàng
khôi phục lại sản xuất và có thể hoàn trả vốn vay ngân hàng.
- Bảo hiểm có lợi cho sự phát triển và củng cố nền kinh tế hàng hóa ở
nông thôn. Trong sản xuất và trao đổi mua bán các mặt hàng nông nghiệp nếu bị
thiên tai và tai nạn bất ngờ, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ đắc lực của các loại hình
bảo hiểm nông nghiệp, như bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng…
- Bảo hiểm tạo điều kiện tăng thêm phúc lợi, ổn định đời sống nhân dân.
Bảo hiểm sẽ giảm cho mọi người gánh nặng tài chính khi xãy ra tai nạn, rủi ro.
- Hoạt động bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh
tế, kỹ thuật thương mại với nước ngoài và đầu tư nước ngoài.
- Bảo hiểm có lợi cho việc đề phòng, hạn chế rủi ro, giảm bớt tổn thất của
cải của xã hội.
1.3.2. Các yếu tố môi trường kinh doanh bảo hiểm
1.3.2.1. Môi trường vĩ mô
• Môi trường kinh tế
Các nhân tố kinh tế bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng trong sự vận
động và phát triển của thị trường bảo hiểm. Trong đó cần chú ý các nhân tố sau:
+ Số lượng, chất lượng và sự phân bố của các nguồn lực xã hội.
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
+ Sự phát triển và ứng dụng của khoa học kỹ thuật
+ Cơ chế quản lý kinh tế, tình hình cạnh tranh thị trường.
+ Thu nhập quốc dân và chi tiêu của Chính phủ.
+ Quan hệ kinh tế đối ngoại và xu hướng phát triển kinh tế trong khu vực.
+ Chính sách đầu tư, thuế, bảo hộ sản xuất…
• Môi trường dân cư
+ Dân số và mật độ dân số.
+ Sự phân bố dân cư, tỷ trọng và chất lượng của nguồn lao động.
+ Cơ cấu dân cư, đặc điểm về giai tầng xã hội.
+ Thu thập, khả năng thanh toán của dân cư, đặc điểm và tâm lý tiêu
dùng xã hội.
• Môi trường văn hóa - xã hội
Các nhân tố văn hóa - xã hội có ảnh hưởng tác động rất lớn đến sự hình
thành và phát triển của nhu cầu bảo hiểm.
+ Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện qua: phong tục, tập quán, tín ngưỡng…
+ Trình độ văn hóa, ý thức của dân cư.
+ Các chính sách, kết quả đầu tư cho việc phát triển văn hóa -xã hội.
+ Các sự kiện văn hóa - xã hội.
• Môi trường chính trị, pháp luật
+ Hệ thống pháp luật, thể chế.
+ Các chính sách từng thời kỳ đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
+ Tình hình chính trị, an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
+ Các biến động xã hội: Chiến tranh, sự kiện chính trị.
• Môi trường tự nhiên và các môi trường khác
Các nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xảy ra rủi ro
cho con người. Đó là thời tiết, khí hậu, môi trường sinh thái, dịch bệnh con người
và gia súc… Ngoài ra, kinh doanh bảo hiểm còn chịu sự ảnh hưởng tác động của
các nhân tố khác như: Biến động về tâm lý, tiêu dùng, xu hướng đầu tư…
1.3.2.2. Môi trường vi mô
Môi trường vi mô là môi trường ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, bao gồm:
• Các công ty kinh doanh bảo hiểm
Ngày nay, bảo hiểm là một trong những lĩnh vực kinh doanh rất hấp dẫn
các nhà đầu tư. Ngay ở thị trường Việt Nam, đến nay đã có thêm hành loạt công
ty bảo hiểm mới ra đời kể cả công ty trong nước lẫn công ty nước ngoài. Để
chiến thắng trong cạnh tranh thị trường, mỗi công ty bảo hiểm phải hoạch định
cho mình một chiến lược và chiến thuật cạnh tranh hiệu quả nhất.
• Quan hệ công chúng cu