Trong suốt quá trình lịch sử xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giữ vị trí quan trọng với 80% dân số và 73% lực lượng lao động xã hội làm nông nghiệp và “. chúng ta không thể có con đường nào khác là phải xây dựng một nền nông nghiệp mạnh và phát triển bền vững (cả về kinh tế, xã hội và sinh thái), dựa vào công nghệ cao từng bước Hiện đại hóa vươn lên trong cạnh tranh ngay cả trên thị trường trong nước và nước ngoài ”
66 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá về tình hình xuất khẩu gạo ở Việt Nam trong giai đoạn 1989-2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong suốt quá trình lịch sử xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giữ vị trí quan trọng với 80% dân số và 73% lực lượng lao động xã hội làm nông nghiệp và “... chúng ta không thể có con đường nào khác là phải xây dựng một nền nông nghiệp mạnh và phát triển bền vững (cả về kinh tế, xã hội và sinh thái), dựa vào công nghệ cao từng bước Hiện đại hóa vươn lên trong cạnh tranh ngay cả trên thị trường trong nước và nước ngoài ” (trích bài Nói chuyện của phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn tại hội nghị báo cáo sinh viên về giải quyết việc làm và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, thông tin công tác tư tưởng số 7/2001) và “nông nghiệp Việt Nam trong thế kỷ XXI phải phấn đấu trở thành nền nông nghiệp có tỷ trọng hàng hóa cao mức xuất khẩu cao" (Nghị quyết của chính phủ số 09/2001/NQ-CP)
Hoạt động ngoại thương có vai trò rất lớn trong sự phát triển thần kỳ của một số nước như Nhật bản, các nước NICs... và là các vấn đề tốt để hội nhập vào xu thế phát triển nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nên kinh tế thị trường, thực hiện chính sách “mở cửa" giao lưu làm ăn kinh tế với các nước trên thế giới, tiến hành Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đưa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy hoạt động ngoại thương có ý nghĩa chiến lược và là một bộ phận trọng yếu trong nền kinh tế. Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước đang thực hiện việc chuyển đổi nên kinh tế theo hướng xuất khẩu.
Hơn nữa để góp phần vào công cuộc chuyển mình của đất nước thì Hiện đại hóa nông nghiệp, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, phát triển sản xuất theo hướng xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và đời sống nhân dân. Sản xuất lúa gạo hàng hóa cũng đang là một vấn đề nóng bỏng đặt ra trong nông nghiệp hiện nay.
Tuy nhiên, việc đẩy mạnh xuất khẩu cũng như hiệu quả xuất khẩu gạo ở Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc như giá gạo xuất khẩu, chất lượng gạo xuất khẩu, lợi ích của những người làm ra hạt gạo.... Như vậy việc xuất khẩu phải chịu tác động của rất nhiều các nhân tố cả tầm vi mô và vĩ mô.
Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu, cũng như kiến thức được trang bị tại trường và việc tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khóa tại Ban Kinh tế vĩ mô Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương. Em mạnh dạn xem xét và nghiên cứu về các vấn đề ảnh hưởng đến việc xuất khẩu gạo của Việt Nam và đề tài được chọn là:
“đánh giá về tình hình xuất khẩu gạo ở Việt Nam trong giai đoạn 1989-2003"
Hy vọng với đề tài này sẽ góp phần nhìn nhận và tháo gỡ khó khăn trong việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới.
Với đề tài thì đây là một vấn đề không phải là mới nhưng phức tạp vì liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế xã hội. Vì vậy, trong quá trình thực hiện nghiên cứu không tránh khỏi thiếu sót trong nội dung cũng như cách trình bầy rất mong các thầy cô và bạn đọc góp ý kiến để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Xin trân thành cảm ơn.
Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng hoá
Đối với mỗi nước, mỗi quốc gia nhu cầu tiêu dùng các loại hàng hoá thì rất cao những khả năng sản xuất các loại hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng (về số lượng) thì không thế đáp ứng được nhu cầu này và chính vì vậy mà họ phải trao đổi (xuất - nhập khẩu) các hàng hoá mình có để đổi lấy cái mình không có để phục vụ cho nhu cầu đó. Mặt khác nếu như chúng ta không nhập khẩu những hàng hoá mà mình không sẵn có và việc sản xuất lại gặp nhiều khó khăn thử hỏi có thể sản xuất được những loại hàng hoá đó một cách có hiệu quả hay không. Xuất phát từ vấn đề như vậy đã thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển và từ khía cạnh đó các nhà học thuyết về kinh tế đã lý luận về lợi ích thu được từ ngoại thương của mỗi quốc gia tham gia vào hoạt động trao đổi ngoại thương. Dựa trên cơ sở về lợi thế so sánh của mỗi quốc gia để quyết định việc sản xuất hay mua bán sản phẩm.
Đối với nước ta, tuy nền kinh tế còn nhiều khó khăn, hạn chế và yếu kém so với nhiều nước đang phát triển cũng như các nước phát triển hiện nay, nhưng để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, cũng như việc tham gia vào phân công lao động quốc tế thì việc hoạt động ngoại thương là vấn đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Trên cơ sở đó, việc sản xuất và xuất khẩu gạo là một vấn đề mà Nhà nước đang quan tâm. Đối với vấn đề này thì nước ta có nhiều khả năng và lợi thế so với các nước khác, để đạt được những mục tiêu cho sự phát triển kinh tế và tạo điều kiện cho công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa theo con đường mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra và lựa chọn thì vấn đề này đòi hỏi phải được quan tâm đúng mực vì không những nó cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm cho việc tiêu dùng nội địa mà còn mang về nguồn ngoại tệ cho đất nước. Những thuận lợi của vấn đề này được thể hiện thông qua một số mặt sau.
+ Với nước ta việc sản xuất lúa nước đã có từ rất lâu trong lịch sự phát triển của đất nước do đó việc sản xuất lúa nước là không thể thiếu được trong nền kinh tế hiện nay của nước ta thể hiện ở chỗ 80% dân số và 73% nguồn lao động làm việc trong ngành nông nghiệp. Hơn nữa điều kiện về khí hậu, đất đai tạo ra nhiều thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp lúa nước. Còn đối với người lao động là những con người cần cù, chịu khó không ngại gian khổ trong lao động sản xuất, các kỹ về ngành nông nghiệp cũng tích cực trong việc nghiên cứu, tìm tòi và đưa ra một số giống mới có chất lượng và năng suất để đưa vào trồng cấy. Từ đó nâng cao sản lượng lúa nước góp phần củng cố ổn định an ninh lương thực và tăng sản lượng gạo xuất khẩu trong những năm tới.
+ Về vị trí địa lý nước ta nằm ở vị trí rất thuận lợi có sự chênh lệch về địa tô so với các nước khác trong khu vực cũng như các nước khác trên thế giới, là đầu mối giao thông cho việc lưu chuyển hàng hoá trên thế giới, nhất là lưu chuyển hàng hoá sang các nước châu phi theo đường biển và các nước khác như Indonexia, do đó giao thông tương đối thuận tiện để có thể hoạt động sản xuất không chỉ đối với mặt hàng lúa gạo mà còn với nhiều mặt hàng khác. Hơn nữa hoạt động ngoại thương tạo ra tiềm năng cho sự phát triển của đất nước, tạo nguồn vốn cho sự phát triển của nước nhà, tạo đà và làm cú "huých" để đưa đất nước thoát khỏi "vòng luẩn quẩn" trong hoạt động kinh tế cũng như nhiều lĩnh vực khác.
Với các lợi thế như vậy thì hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu lúa gạo nói riêng của nước ta hiện nay là vấn đề được cọi trọng và chú ý hơn nữa, Nhà nước tạo điều kiện để cải thiện và hoàn thiện hệ thống phục vụ cho việc xuất khẩu này. Chúng ta cần phải đầu tư hơn nữa trong việc nghiên cứu và lai tạo giống mới có năng suất và chất lượng nhằm tạo thế trong việc giao dịch cũng như tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, xây dựng được một số thị trường truyền thống.
Trên cơ sở như vậy, vấn đề nghiên cứu đối với đề tài đặt ra ở đề tài là phân tích và nghiên cứu các vấn đề về thực trạng đối với sản xuất cũng như xuất khẩu gạo. Qua đó nghiên cứu và tìm hiểu một số mô hình để thấy rõ hơn nữa đối với vấn đề này.
Chương I:
Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
trong thời gian từ năm 1989 - 2003
I. Đánh giá chung về tình hình của Việt Nam đối với sản xuất và tiêu dùng gạo trong thời gian qua.
1. Về tình hình tiêu dùng
Sản lượng lúa tăng nhanh, đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong thời gian từ 1991 -2000, tiêu dùng gạo đã tăng khoảng 3%. Con số này lớn hơn 2,1% tăng dân số /năm trong cùng thời gian này.
Từ năm 1991, Việt Nam không những đủ gạo tiêu dùng trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu.
Xem biểu đồ về tốc độ phát triển liên hoàn của sản lượng và tiêu dùng của Việt Nam qua các năm.
Biểu đồ về tốc độ tăng liên hoàn của sản xuất và tiêu dùng
Qua biểu đồ trên cho chúng ta thấy sản lượng sản xuất và mức độ tiêu dùng gạo trong nước, từ đó có thể nhận thấy sản lượng gạo dư thừa để xuất khẩu.
Sản lượng thóc dự trữ và tiêu dùng trong nước từ năm 1991-2000 luôn chiếm trên 80% sản lượng thóc sản xuất. Lượng thóc này dư thừa để đảm bảo an ninh lương thực trong nuớc. Năm 1996 tiêu thụ lúa gạo trong nuớc bình quân đầu người 162,2 kg/người/năm (nông thôn 14,3 kg và thành thị 11,4 kg/người/tháng). Mức tiêu thụ gạo này của nước ta được đánh giá là mức tiêu thụ gạo/người cao nhất thế giới và ít có khả năng tăng mức tiêu thụ này lên nữa. Trong khi đó, sản lượng thóc bình quân đầu người ở nước ta năm 1998 là 364 kg tương đương với 236 kg gạo. Như vậy tính trung bình mỗi người dân được khoảng 50-70 kg gạo. Số lượng gạo này để dự trữ và xuất khẩu.
Cùng với việc tăng sản lượng và dư thừa trong nước, sự phát triển của ngành gạo phụ thuộc vào nhịp độ tăng trưởng trong xuất khẩu gạo.Vì thị trường trong nước không thể tiêu thụ hết sản lượng gạo tăng lên, giá gạo sẽ giảm đi, trừ khi nhu cầu về gạo ở ngoài nước tạo ra một lối thoát cho việc tăng lên của sản lượng gạo. Nếu xuất khẩu gạo không được phép mở rộng, nông dân sẽ không có động cơ tăng cường sản xuất mặc dù các chính sách về lúa gạo vẫn khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, phát triển ngành gạo trong tương lai phụ thuộc vào xuất khẩu.
2. Về tình hình sản xuất
Từ năm 1991 chúng ta đã giải quyết được vấn đề lương thực, đủ ăn và bắt đầu tham gia vào thị trường lúa gạo thế giới.
Sản lượng lúa bình quân thời kỳ 1987-1991 đạt 17,2652 triệu tấn ; thời kỳ 1992-1996 đạt 22,504 triệu tấn; thời kỳ 1997-2000 đạt 28,61 triệu tấn và năng suất lúa trong thời kỳ này cũng liên tục tăng: 1987-1991 là 29,8 tạ/ ha ; năm 1992-1996 là 34,3 tạ/ha; năm 2000 đạt 40,8 tạ/ha và năm 2001 khoảng 42,62 tạ/ha. So sánh với một số nước trên thế giới, tốc độ tăng năng suất lúa của Việt Nam tương đối cao.
Sản lượng lúa cả nước đạt 32,7 triệu tấn, tăng 1,31 triệu tấn so với năm 2000 (lúa đông xuân tăng 1,46 triệu tấn, lúa hè thu giảm 214 nghìn tấn và lúa mùa tăng khoảng 69 nghìn tấn). Nguyên nhân chính của việc tăng sản lượng lúa năm 2001 là tăng năng suất, còn diện tích tăng không đáng kể. Tổng diện tích lúa cả năm đạt 7673,3 nghìn ha, chỉ tăng 0,26% (20 nghìn ha) so với năm 2000, Trong khi đó các tỉnh phía Nam đạt 5083,5 nghìn ha giảm 21 nghìn ha (chủ yếu lúa hè thu và lúa mùa), các tỉnh phía Bắc đạt 2589,8 nghìn ha, tăng 41 nghìn ha (1,61%). Năng suất lúa bình quân cả năm ước đạt 42,62 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha so với năm 2000, miền Bắc đạt 46,5 tạ /ha (tăng 2,2 tạ / ha), miền Nam đạt 40,5 tạ/ha (tăng 1,29 tạ/ha, nguyên nhân năng suất tăng do cơ cấu giống lúa của các tỉnh niềm Bắc thay đổi nhanh theo hướng tăng tỷ lệ diện tích các giống lúa lai, lúa thuần có năng suất cao, chủ yếu trong vụ đông xuân.
Vụ đông xuân, cả nước gieo cấy 3012 nghìn ha, tăng 4,26% so với vụ đông xuân trước, trong đó các tỉnh phía Bắc đạt 1162 nghìn ha, tăng 3,64%; các tỉnh phía Nam đạt 1850 nghìn ha và tăng 4,66%. Theo báo cáo chính thức của các địa phương, năng suất đạt 51,66 tạ/ ha, tăng 2,8 tạ/ha, sản lượng lúa vụ đông xuân đạt 15,56 triệu tấn, tăng 10,33% (1,45 triệu tấn) so với vụ đông xuân 2000, các tỉnh phía Bắc đạt 6,15 triệu tấn, tăng 11,78%; các tỉnh phía nam đạt 9,41 triệu tấn, tăng 9,4%. Nhờ vụ lúa đông xuân được mùa lớn và toàn diện nên đã bù lại thiệt hại do lũ lớn ở đồng bằng sông Cửu Long vụ hè thu.
Vụ hè thu gieo cấy 2297,8 nghìn ha, giảm 43,4 nghìn ha so với vụ hè thu trước, trong đó các tỉnh Bắc Trung Bộ đạt 146,8 nghìn ha, tăng gần 6 nghìn ha, miền Nam giảm 49,3 nghìn ha chỉ đạt 2151 nghìn ha (97,76% so với vụ trước). Diện tích gieo cấy lúa mùa của cả nước đạt 2363,5 nghìn ha, giảm 60 nghìn ha so với vụ trước, chủ yếu do nhiều địa phương đồng bằng sông Cửu Long đã chuyển sang gieo sạ lúa đông xuân. Năng suất lúa mùa năm 2001 đạt 36,39 tạ/ha, tăng 1,19 tạ/ ha sản lượng đạt khoảng 8,6 triệu tấn, tăng trên 69 nghìn tấn so với vụ trước.
Không chỉ riêng năm 2001, mà trong suốt hơn 10 năm qua, sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng của Việt Nam đạt được những kết quả to lớn và ổn định chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
Một là: Thực hiện đồng bộ các tiến độ kỹ thuật trong thâm canh lúa
+ Thuỷ lợi hoá: Tuy còn nhiều khó khăn song Nhà nước đã đầu tư cơ sở vật chất xây dựng hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Việc tập trung đầu tư khai thác vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu và bán đảo Cà Mau đã tạo ra kết quả to lớn trong sản xuất lúa. Tính đến năm 2001 diện tích đất canh tác được tới đạt trên 7 triệu ha và diện tích được tiêu khoảng 1 triệu ha.
+ Đưa các giống mới vào sản xuất: Đây là tiền đề tăng năng suất lúa trong những năm qua. Tỷ lệ giống mới trong sản xuất chiếm khoảng 90% và được bố trí phù hợp với điều kiện sinh thái khác nhau.
+ Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ: Vấn đề chuyển đổi cơ cấu mùa vụ là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo cho diện tích và sản lượng tăng vững chắc trong suốt những năm qua, đồng thời đóng vai trò quyết định để tăng tổng sản lượng trong cả nước. Vùng đồng bằng sông Hồng nổi lên với trà lúa xuân muộn, nhiều tỉnh đưa tỷ lệ lên đến 60 - 70 % diện tích. Phát triển vụ lúa hè thu ở Miền Trung, tránh mưa bão và đảm bảo thu hoạch an toàn. ở đồng bằng sông Cửu Long cũng thay đổi và đi dần vào ổn định với xu hướng tăng dần diện tích chỉ gieo cấy một vụ lúa mùa.
+ Lĩnh vực bảo vệ thực vật cũng đạt được những thành tích nhất định: áp dụng thành công biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM), sử dụng giống chống chịu hạn, biện pháp canh tác...
Những chương trình khuyến nông có ý nghĩa quan trọng trong chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân và tạo ra phương thức dịch vu sản xuất mới ở nông thôn hiện nay
Hai là: Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, mở rộng quyền tự chủ của hộ gia đình, nông dân phấn khởi đẩy mạnh thâm canh, mở rộng diện tích gieo trồng lúa hè thu và chiêm xuân (chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long) là nguyên nhân chính trong tăng diện tích sản xuất lúa.
Năm 1999, Nhà nước chủ trương bảo vệ quỹ đất hiện có (4,2 triệu ha) và tiếp tục đầu tư mở rộng. Sang năm 2001, chính sách đất trồng lúa có những thay đổ linh hoạt hơn, giữ ổn định 4 triệu ha đất có điều kiện tưới tiêu, chủ động. Thuế suất, thuế chuyển quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối giảm từ 10% trước đây xuống còn 2%.
Nhờ những thay đổi kịp thời và hợp lý của các chính sách đất đai, diện tích đất sản xuất lúa tính đến năm 2000 đã có khoảng 5,7 triệu ha đất nông nghiệp (khoảng 78%) được giao cho nông dân; 10,2 triệu hộ nông dân (87%) được cấp giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất. Đây là yếu tố cơ bản trong việc thâm canh ổn định sản xuất.
Ba là: Do tác động đồng bộ của nhiều cơ chế, chính sách mới về đầu tư, tín dụng, vật tư nông nghiệp và khuyến nông đã tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế nông thôn và đóng vai trò rất quan trọng trong thành tích sản xuất lương thực thời gian qua.
II. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến Nay
1. Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu
1.1. Chất lượng gạo xuất khẩu
Chất lượng gạo có liên quan đến một loạt các yếu tố sản xuất như đất đai, thuỷ lợi, phân bón, giống, chế biến, vận chuyển, bảo quản... Trong đó, giống lúa và công nghệ chế biến sau thu hoạch đóng vai trò quan trọng và quyết định phẩm chất luá gạo hàng hoá. Giải pháp về giống lúa cần đi trước một bước, kể cả nghiên cứu triển khai và áp dụng vào thực tiễn nhằm tạo ra tiền đề cơ bản trong sản xuất. Những năm qua, hàng loạt giống lúa mới chọn tạo và nhập nội được hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận giống quốc gia đưa vào sản xuất ở các vùng sinh thái khác nhau, đã là yếu tố quyết định đưa năng suất lúa của nước ta tăng ổn định và vững chắc. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu chính của nước ta,nhưng thực tế ở vùng này gieo cấy trên 70 loại giống lúa và trong đó chỉ có 5 giống lúa có thể xuất khẩu được là IR9729, IR64, IR59606, OM997-6 và OM132. Giống lúa chủ lực cho xuất khẩu ở phía Bắc hiện nay là C70, C71, CR203, Q5, IR1832 và nói chung được gọi là “gạo trắng Việt Nam” có chất lượng từ trung bình đến thấp.
Bộ giống lúa chất lượng cho xuất khẩu của nước ta hiện nay khá phong phú, tuy nhiên chúng ta vẫn thiếu những giống có giá trị cao trên thị trường gạo thế giới (giá từ 700-1000 USD/tấn). Để khai thác tiềm năng xuất khẩu gạo của đất nước, việc tổ chức, quy vùng sản xuất, nghiên cứu chọn tạo nhằm tìm ra các giống lúa tốt là một trong những khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh tế của ngành xuất khẩu lúa gạo nước ta.
Đối với vụ lúa mùa, giống lúa cao sản IR45 (NN43) hiện nay là giống lúa điển hình đạt chất lượng xuất khẩu, khách hàng chấp nhận, nông dân thích trồng vì dễ cấy, chịu phèn và mặn tốt có khả năng cao thời gian sinh trưởng ngắn (140 -145 ngày)
ở đồng bằng sông Cửu Long, giống lúa ngắn ngày X21 và giống lúa lai hệ 3 dòng HR1 đạt chất lượng xuất khẩu, lại có uư thế canh tác, năng xuất cao (6-10 tấn/ha), chịu rét thích ứng với nhiều loại đất phèn, mặn và kháng phèn tốt.
Chất lượng gạo xuất khẩu gồm nhiều tiêu thức như hình dáng, kích cỡ, mùi vị, tạp chất... nhưng trong đó tỷ lệ tấm đóng vai trò quan trọng, thường được quan tâm tới. Dưới đây chúng ta xem bảng phản ánh chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong mấy năm qua và bảng tiêu chuẩn phân loại của viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) 1980.
Bảng chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam
(% so với tổng số lượng xuất khẩu trong năm đó)
Tốc độ tăng liên hoàn chất lượng gạo xuất khẩu (%)
Cao
Trung bình
Thấp
1990
1.0
2.5
96.5
100
100
100
1991
14.3
8.7
77.0
143.0
348.0
78.97
1992
35.1
10.0
55.0
245.45
119.94
71.43
1993
40.3
15.2
45.0
114.15
152.0
81.82
1994
51.2
21.4
28.0
127.05
140.79
62.22
1995
70.0
13.0
17.0
136.72
60.75
60.71
1996
54.8
22.7
22.5
78.29
174.62
129.41
1997
49.0
13.0
38.0
89.42
57.27
168.89
1998
44.0
8.0
48.0
89.80
61.54
126.32
1999
53.0
11.0
36.0
120.45
137.5
75
2000
30
30
40.0
68.18
375
125
Nguồn: Tổng cục Thống Kê
Bảng tiêu chuẩn phân loại gạo của Viện Nghiên cứu lúa quốc tế
(IRRI): 1980
Chiều dài hạt gạo chia thành 4 cấp (mm)
Cấp 1 - rất dài
> 7,50
Cấp 2 - dài
> 6,61 - 7,50
Cấp 5 - trung bình
5,51 - 6.61
Cấp 7 - ngắn
< 5,50
Hình dạng hạt gạo: tỷ lệ chiều dài / rộng (D/R)
Cấp 1 - thon
> 3,0
Cấp 3 - trung bình
2,1 - 3,0
Cấp 5 - bầu
1,1 - 2,0
Cấp 9 - tròn
Ê 1,0
Kích thớc và hình dáng dạng hạt gạo
Hạt rất dài
D >7
Hạt dài
6 Ê D Ê 7
Hạt trung bình
5 Ê D Ê 6
Hạt ngắn
D < 5
Hạt thon dài
D/R > 3
Hạt thon trung bình
2 Ê D/R Ê 3
Hạt hơi thon
D/R < 2
Độ bạc bụng ( 4 loại - điểm)
Điểm 0
Không có vết đục trong gạo
Điểm 1
Vết đục chiến ít hơn 10% diện tích hạt
Điểm 5
Vết đục chiếm từ 11 -20 % diện tích hạt
Điểm 9
Vết đục chiếm hơn 20% diện tích hạt
Trong mấy năm gần đây, chất lượng gạo của Việt Nam đã tăng lên, gạo phẩm cấp cao chiếm 40% tổng số gạo xuất khẩu. Tốc độ tăng của gạo phẩm cấp cao hàng năm là không ổn định. Từ năm 1991-1995, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 0,53 lần (53%/năm). Từ năm 1996-1998, tốc độ này giảm xuống còn 0,14 lần (14%/năm)nhưng tốc độ của cả giai đoạn xuất khẩu lại tăng lên gần 0,27 lần (27%/năm). Trong khi đó tốc độ tăng của gạo trung bình và thấp là 0,19 lần (19%/năm), tăng chậm hơn tốc độ tăng của gạo phẩm cấp cao.
Có thể nói rằng gạo phẩm cấp cao của ta xuất khẩu chưa nhiều, đa phần chỉ là gạo loại trung bình và các loại gạo khác. Do đó, kim ngạch thu về thường không cao. Riêng năm 1999, gạo cấp cao của Việt Nam xuất khẩu tăng vợt, chiếm 53%, đã góp phần làm tăng giá gạo xuất khẩu, khiến kim ngạch đạt 1016 triêu USD, tăng 11,35%, mặc dù sản lượng chỉ tăng gần 3% so với năm 1998.
Tóm lại, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong mấy năm qua tăng lên rõ rệt; các loại gạo 5% tấm tăng từ 0,3 lên 30% trong tổng lượng gạo xuất khẩu. Cả hai cấp g