Đề tài Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động

XKLĐ là một xu hướng tất yếu khách quan ở các nước do quá trình toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa thương mại và phân công lao động quốc tế. Nó đem lại lợi ích to lớn về kinh tế, xã hội cho mỗi quốc gia XKLĐ. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, hiệu quả kinh tế, xã hội của XKLĐ còn chưa thực sự tương xứng với yêu cầu và tiềm năng hiện có, chất lượng lao động xuất khẩu chưa cao.

doc27 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1481 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT XKLĐ: Xuất khẩu lao động DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ: STT Tên bảng Trang Nguồn 1 Kết quả xuất khẩu lao động giai đoạn 2000-2006 11 Bản tin thị trường lao động 2 Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và có nghề trước khi đi xuất khẩu lao động 12 Giáo trình Thị trường lao động 3 Tỷ lệ % về trước hết hạn và bỏ trốn của lao động tại Đài Loan từ năm 1999 đến 30/6/2003 14 Cục quản lý lao động ngoài nước LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài. XKLĐ là một xu hướng tất yếu khách quan ở các nước do quá trình toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa thương mại và phân công lao động quốc tế. Nó đem lại lợi ích to lớn về kinh tế, xã hội cho mỗi quốc gia XKLĐ. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, hiệu quả kinh tế, xã hội của XKLĐ còn chưa thực sự tương xứng với yêu cầu và tiềm năng hiện có, chất lượng lao động xuất khẩu chưa cao. Mặt khác khi nền kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển thì xu hướng của các nước nhập khẩu lao động hiện nay là đòi hỏi những lao động có trình độ tay nghề, dần dần chuyển sang lĩnh vực, ngành nghề cần lao động chuyên môn kỹ thuật cao để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều đó làm cho XKLĐ giản đơn sẽ không còn là một lợi thế đối với nước ta. Chính vì vậy vấn đề cấp thiết đặt ra trước mắt với XKLĐ nước ta hiện nay là phải nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động XKLĐ. Để nâng cao chất lượng XKLĐ thì yếu tố quyết định đó là đào tạo và phát triển cho lao động xuất khẩu. Với mong muốn tìm hiểu và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đào tạo, phát triển lao động xuất khẩu từ đó nâng cao chất lượng XKLĐ ở Việt Nam trong thời gian tới nên tôi đã chọn đề tài này làm đề án nghiên cứu môn học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về sự cần thiết, nội dung và đánh giá hiệu quả của công tác đào tạo, phát triển đến chất lượng lao động xuất khẩu từ đó đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo phát triển đến hoạt động XKLĐ. Đề tài nghiên cứu các vấn đề về XKLĐ ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1998 trở về đây. Đề tài chỉ nghiên cứu lĩnh vực XKLĐ và chuyên gia, không nghiên cứu XKLĐ tại chỗ và người Việt Nam ở nước ngoài XKLĐ sang một nước thứ ba. 3. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích hệ thống hóa cơ sở lý luận về đào tạo phát triển và chất lượng lao động xuất khẩu; vận dụng những lý luận đó để luận giải, đánh giá về nội dung, thực trạng công tác đào tạo phát triển có ảnh hưởng thế nào đến chất lượng lao động xuất khẩu ở nước ta từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả của đào tạo phát triển cho XKLĐ trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong đề án có sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, mô hình hóa và dự báo. Sử dụng những tài liệu, nguồn thông tin từ giáo trình, luận văn, báo, tạp chí và các sách có liên quan. 5. Tên đề tài và kết cấu đề án Tên đề tài là “ Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động” Đề án gồm có ba phần: Phần 1: Cơ sở lý luận về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và lao động xuất khẩu Phần 2: Đánh giá thực trạng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực với chất lượng lao động xuất khẩu ở nước ta Phần 3: Các giải pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực . Khái niệm Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp người lao động. Xét về nội dung, phát triển nguồn nhân lực bao gồm ba loại hoạt động đó là giáo dục, đào tạo và phát triển. Giáo dục: được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề mới thích hợp hơn trong tương lai. Đào tạo: là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện được có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập để người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, để nâng cao trình độ, kĩ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn. Phát triển: là các hoạt động học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức. Mục tiêu của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 1.2.1 Mục tiêu Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và nâng cao tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp cho người lao động hiểu rõ hơn về công việc, nắm vững hơn về nghề nghiệp của mình và thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình tự giác hơn với thái độ tốt hơn cũng như nâng cao khả năng thích ứng của họ với các công việc trong tương lai. Vai trò Đào tạo và phát triển có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một tổ chức. Thứ nhất để đáp ứng yêu cầu công việc hay chính là đáp ứng nhu cấu tồn tại và phát triển của tổ chức; thứ hai đáp ứng nhu cầu học tập, phát triển của người lao động đồng thời đào tạo và phát triển là những giải pháp chiến lược để tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Các loại chương trình đào tạo và phát triển. Có năm loại hình chương trình đào tạo và phát triển: Định hướng lao động: Mục đích để phổ biến thông tin, định hướng và cung cấp kiến thức mới như giải thích cho người lao động về cấu trúc tổ chức mới hay cung cấp các thông tin về tổ chức cho những người mới. Phát triển kĩ năng: Những người mới phải đạt được các kĩ năng cần thiết để thực hiện công việc và các kinh nghiệm để họ đạt được các kĩ năng mới khi công việc của họ thay đổi hoặc có sự thay đổi về máy móc, công nghệ. Đào tạo an toàn: Loại đào tạo này được tiến hành để ngăn chặn và giảm bớt các tai nạn lao động và để đáp ứng các đòi hỏi của luật pháp. Đào tạo nghề nghiệp: Mục đích là để tránh việc kiến thức kĩ năng nghề nghiệp bị lạc hậu. Việc đào tạo này nhằm phổ biền các kiến thức mới hoặc các kiến thức thuộc các lĩnh vực liên quan đến nghề mang tính đặc thù như nghề luật, kế toán, y… Đào tạo người giám sát và quản lý: Những người giám sát và các nhà quản lý cần được đào tạo để biết cách ra các quyết định hành chính và biết cách làm việc với con người. Loại hình đào tạo này chú trọng vào các lĩnh vực ra quyết định, giao tiếp, giải quyết vấn đề và tạo động lực. Chất lượng lao động xuất khẩu. Xuất khẩu lao động. XKLĐ là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận của kinh tế đối ngoại mà hàng hóa đem xuất là sức lao động của con người còn khách mua là chủ thể nước ngoài. Nói cách khác, XKLĐ là một hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng lao động cho nước ngoài. Nghị định số 152/NĐ-CP xác định rằng: “Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế- xã hội góp phần phát triển nguồn lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước…cùng với giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa…”. Chất lượng lao động xuất khẩu. Lao động xuất khẩu là những người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo các hợp đồng ký kết giữa người lao động với các công ty, tổ chức nước ngoài và những người đi làm việc ở nước ngoài theo các hình thức khác. Chất lượng lao động xuất khẩu được hiểu là năng lực sinh thể, văn hóa, đạo đức, tư tưởng và sự thống nhất với kỹ năng lao động theo nghề nghiệp của người lao động xuất khẩu. Cụ thể ở đây chất lượng lao động xuất khẩu được đánh giá bởi các tiêu chí sau: Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn: các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm liên quan đến công việc của người lao động Khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ Hiểu biết về văn hóa, pháp luật của nước tiếp nhận lao động, khả năng hòa nhập cộng đồng và ứng xử với các nền văn hóa khác Phẩm chất người lao động: bao gồm tác phong lao động, ý thức kỷ luật, khả năng làm việc với cường độ cao, khả năng thích ứng với môi trường mới… Sự cần thiết phải đào tạo và phát triển đối với lao động xuất khẩu Dịch vụ XKLĐ chỉ thực hiện được và có hiệu quả khi chất lượng lao động xuất khẩu đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Chất lượng lao động xuất khẩu lại phụ thuộc chặt chẽ vào quá trình đào tạo và giáo dục định hướng. Hiện nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu lao động chưa qua đào tạo hoặc đào tạo ít để làm những công việc giản đơn nên hiệu quả không cao, đơn giá tiền lương của lao động Việt Nam thấp, chưa tạo được thương hiệu trên thị trường lao động quốc tế. Ở nhiều thị trường, lao động xuất khẩu Việt Nam ngày càng bộc lộ nhiều điểm yếu đó là kỹ năng tay nghề thấp không đáp ứng được yêu cầu, trình độ ngoại ngữ hạn chế dẫn tới nhiều bất đồng, thiếu ý thức kỷ luật. Trong khi đó với xu hướng hiện nay việc XKLĐ ngày càng đòi hỏi khắt khe về kỹ năng tay nghề, về chấp hành kỷ luật và trình độ ngoại ngữ. Nếu Việt Nam không nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu thì sẽ không thể cạnh tranh với các nước khác trên thị trường lao động xuất khẩu quốc tế. PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VỚI CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU Ở NƯỚC TA Đánh giá chung về xuất khẩu lao động . Thành tựu XKLĐ nước ta trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thị trường XKLĐ từng bước ổn định và mở rộng, số thị trường nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng lên tính đến năm 2006 là gần 50 quốc gia và vùng lãnh thổ chủ yếu là thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malayxia. Hiện nay XKLĐ nước ta đang từng bước tiếp cận và thí điểm để mở rộng sang các thị trường mới như Mỹ, Australia, Trung Đông. Kết quả XKLĐ chung cả nước trong giai đoạn 2000-2006 được thể hiện ở biểu đồ sau: Biểu 1: Kết quả xuất khẩu lao động giai đoạn 2000-2006 Số lao động đưa đi xuất khẩu hàng năm có xu hướng tăng lên nhanh, trong 6 năm từ 2000 đến 2006 tăng lên 2.5 lần. Cơ cấu ngành nghề làm việc đa dạng chủ yếu là điều dưỡng viên, giúp việc gia đình, sản xuất chế tạo, cơ khí điện tử, xây dựng, thủy thủ tàu vận tải, dệt may… Tính đến tháng 9/2004, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ XKLĐ là 144 doanh nghiệp trong đó có 118 doanh nghiệp Nhà nước, 11 doanh nghiệp thuộc các tổ chức đoàn thể, 12 công ty cổ phần và 3 công ty trách nhiệm hữu hạn. Các doanh nghiệp này đã và đang từng bước đổi mới phương thức hoạt động, phát triển nhiều hình thức dịch vụ tiến bộ, đầu tư có trọng điểm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Dịch vụ XKLĐ của các doanh nghiệp góp phần làm cho hàng vạn người có việc làm với thu nhập cao. Tỷ lệ lao động XKLĐ trong tổng số lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005 khoảng 3.42%. Bình quân hàng năm trên 1 tỷ USD được chuyển về nước từ nguồn lao động xuất khẩu góp phần đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Không những vậy, dịch vụ XKLĐ còn làm giảm được khoản đầu tư khá lớn cho đào tạo nghề và giải quyết việc làm trong nước, người lao động được nâng cao tay nghề, tiếp thu được công nghề sản xuất mới, phương pháp quản lý tiên tiến, được rèn luyện tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp. 1.2. Hạn chế Số lượng lao động đưa đi của các doanh nghiệp còn thấp so với yêu cầu. Một số doanh nghiệp không tích cực đầu tư, chủ động tìm kiếm, khai thác thị trường. Chất lượng lao động xuất khẩu của các doanh nghiệp vẫn còn thấp so với đòi hỏi của thị trường nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại; chủ yếu là XKLĐ phổ thông; một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu cầu nhưng ta chưa có đủ để đáp ứng. Tình trạng lao động bỏ trốn ra ngoài sống bất hợp pháp và lao động phải về nước trước hạn xảy ra phổ biến, ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động nước ta và làm giảm đáng kể hiệu quả dịch vụ XKLĐ của doanh nghiệp. Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu Về trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ Chất lượng lao động xuất khẩu Nước ta về chủ yếu vẫn xuất khẩu lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Năm Số LĐ xuất khẩu (người) Tỷ lệ có nghề (%) 1998 12 240 39.9 2003 75 000 16.17 2004 68 000 < 20 2005 70 407 2006 78 855 Biểu 2: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo và có nghề trước khi đi xuất khẩu lao động Trong đó tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo của các doanh nghiệp XKLĐ nhà nước cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân. Trong giai đoạn 2000-2005, tỷ lệ này của doanh nghiệp nhà nước là 43.69% trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ có 13.72%. Những lao động đã qua đào tạo chất lượng cũng chưa cao, đa số chỉ đáp ứng được những công việc giản đơn, chưa tập trung vào đào tạo lao động kỹ thuật cao. Trình độ ngoại ngữ của đa số lao động còn yếu dẫn tới những sự cố như hiểu lầm, xung đột trong quan hệ chủ - thợ và hạn chế trong việc giao tiếp, trao đổi, tiếp thu kiến thức mới tại nơi tiếp nhận lao động xuất khẩu. 2.2. Về phẩm chất, ý thức kỷ luật * Ưu điểm Lao động xuất khẩu nước ta tiếp thu công việc nhanh, cần cù, chịu khó, trình độ văn hóa khá, nhiều lao động đã chủ động học ngoại ngữ, nâng cao tay nghề, tìm hiểu về văn hóa pháp luật, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đi làm việc * Hạn chế Lao động đi xuất khẩu phần đông là lao động từ các vùng nông thôn và hoạt động trong nông nghiệp nên tác phong làm việc, tập quán suy nghĩ và hành động còn nhiều điểm chưa phù hợp với môi trường làm việc tiên tiến ở các nước tiếp nhận lao động. Về mặt thể lực còn yếu so với các nước khác trong khu vực nên khả năng chịu đựng kém khi làm những công việc nặng nhọc. Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn, cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài và phải về nước trước thời hạn còn rất phổ biến. Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2004 tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn tại Anh là 100%, Nhật Bản là 34% chiếm 42,1% tổng số lao động nước ngoài bỏ trốn tại nước này, tình hình này làm cho đối tác Nhật Bản rất ái ngại tiếp nhận lao động Việt Nam. Tại Hàn Quốc, tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn là 59,25% đứng thứ ba trên 15 nước được phép đưa lao động vào nước này. Tại Đài Loan tỷ lệ này xấp xỉ 10% buộc chính quyền Đài Loan phải đóng cửa thị trường lao động dịch vụ gia đình và dịch vụ xã hội, thuyền viên đánh cá. Tên doanh nghiệp Số lao động đưa đi Lao động về trước hạn Lao động bỏ trốn Số người % Số người % Cả nước 59866 7141 11.93 3854 6.44 VIETRACIMEX 5051 394 7.80 327 6.47 TRAENCO 3151 296 9.39 142 4.51 DLKS Thái Bình 2282 340 14.90 158 6.92 SONA 2227 171 7.68 46 2.07 SÔNG ĐÀ 1812 218 12.03 83 4.58 TRANCIMEXCO 1647 146 8.86 74 4.49 LOD 1571 339 21.58 115 7.32 INTRACO 1566 142 9.07 159 10.15 TRANSINCO 1418 113 7.97 55 3.88 INTERSERCO 908 67 7.38 67 7.38 Biểu 3: Tỷ lệ % về trước hết hạn và bỏ trốn của lao động tại Đài Loan từ năm 1999 đến 30/6/2003 (nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước) Tình trạng này không chỉ gây nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp như bị đối tác phạt tiền, tốn kém chi phí hòa giải, thất thu khoản phí dịch vụ được thu theo quy định của Nhà nước nếu người lao động bỏ trốn mà nó còn làm giảm uy tín của lao động Việt Nam, dẫn tới nguy cơ thu hẹp các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malayxia. Thực tế tại một số thị trường, lao động Việt Nam đã không còn được ưa chuộng như trước do sự thiếu ý thức kỷ luật của các lao động gây ra đặc biệt là tại thị trường Malayxia, nhiều doanh nghiệp đã từ chối nhận các lao động nam Việt Nam. Ngoài ra hiện tượng các lao động không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tự ý bỏ hợp đồng đi làm việc cho chủ khác, vi phạm kỷ luật lao động, tổ chức đình công rủ rê lôi kéo các lao động khác vi phạm cũng không phải là ít. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do chất lượng nguồn lao động đầu vào không cao, mặt khác là do hạn chế trong công tác giáo dục định hướng của doanh nghiệp XKLĐ. 3. Thực trạng đào tạo và phát triển cho lao động xuất khẩu 3.1. Nội dung đào tạo, phát triển lao động xuất khẩu Khái niệm và mục tiêu Đào tạo lao động xuất khẩu là quá trình đào tạo cho người lao động về kỹ năng, tay nghề để họ có thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả hơn đối với công việc họ sẽ đảm nhận khi đi làm việc ở nước ngoài. Mục tiêu của đào tạo là lao động sau đào tạo đáp ứng được yêu cầu của nước tiếp nhận lao động về mặt chuyên môn, tay nghề, trình độ ngoại ngữ. Vì vậy việc đào tạo lao động xuất khẩu phải cung cấp đầy đủ cho người lao động những hiểu biết có liên quan về: Luật Lao động, luật Hình sự, luật Dân sự, luật Xuất nhập cảnh và cư trú của Việt Nam và các nước tiếp nhận lao động, nghĩa vụ chấp hành và tuân thủ pháp luật Phong tục, tập quán, điều kiện làm việc và sinh hoạt, quan hệ cư xử chủ-thợ, kinh nghiệm giao tiếp ở nước tiếp nhận lao động Nội dung hợp đồng ký kết, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của người lao động trong việc thực hiện hợp đồng Kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp Trình tự xây dựng chương trình đào tạo Cũng giống như các loại hình đào tạo khác, đào tạo lao động xuất khẩu phải tuân theo quy trình tiếp cận sau: Xác định và phân tích nhu cầu đào tạo căn cứ vào kế hoạch XKLĐ, thực trạng nguồn lao động, quy định của Nhà nước và yêu cầu của đối tác. Phân tích nhu cầu công việc, mô tả công việc, xác định các kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để thực hiện công việc. Phân tích nhu cầu cá nhân, đặc điểm đối tượng tuyển sinh, kỹ năng nghề đã có, khả năng trí tuệ, thể lực, tâm lý, tình cảm, hoàn cảnh gia đình, các mối quan hệ. Phân tích đặc điểm văn hóa, xã hội của nước lao động sẽ đến làm việc. Sử dụng phương pháp tiếp cận và kỹ thuật đánh giá nhu cầu đào tạo. Xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Xác định mục tiêu và thiết kế nội dung chương trình, phương thức đào tạo. Nội dung đào tạo và giáo dục định hướng 3.1.3.1. Nội dung đào tạo lao động xuất khẩu Nội dung chương trình đào tạo cho lao động xuất khẩu được thực hiện theo quy định của Nhà nước. Các doanh nghiệp thường có chương trình đào tạo và giáo dục định hướng từ 2 đến 3 tháng song chương trình này với khoảng thời gian quá ngắn không thể đủ để giáo dục nhân cách, bổ sung đầy đủ tri thức cũng như khắc phục được những khác biệt xã hội, chuẩn mực đạo đức. Do đó các doanh nghiệp cần có sự lựa chọn chất lượng lao động ngay từ đầu và chương trình đào tạo bắt buộc phải có những nội dung cụ thể sau: Đào tạo bổ túc nghề: mục đích để người lao động có thể đáp ứng được yêu cầu nêu ra trong hợp đồng với chủ sử dụng lao động. Đào tạo bổ túc nghề đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tỷ lệ lao động không biết làm việc. Đào tạo nâng cao tay nghề: vì sẽ tốn thêm tiền và thời gian của người lao động nên khi đào tạo nâng cao người ta thường chú ý đến nhu cầu đào tạo nâng cao theo yêu cầu cụ thể của đối tác. Đào tạo ngoại ngữ: đào tạo ngoại ngữ giúp người lao động nâng cao và đạt được trình độ ngoại ngữ theo yêu cầu của công việc ở nước ngoài. Trong quá trình đào tạo ngoại ngữ ngoài những kiến thức cơ bản chung còn cần bổ sung những kiến thức ngoại ngữ liên quan đến môi trường, văn hóa, phong tục tập quán của nước mà người lao động đến làm việc. 3.1.3.2. Nội dung giáo dục định hướng Giáo dục định hướng phải đảm bảo các nội dung sau: Giáo dục về luật pháp của Việt Nam và nước bạn đặc biệt là các vấn đề liên quan đến luật lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của lao động khi làm việc ở nước ngoài, những vấn đề về chi tiết của hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Giáo dục về phong tục tập quán của nước bạn tạo thuận lợi cho người lao động hòa nhập với môi trường mới. Giáo dục về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của người lao động với doanh nghiệp, Nhà nước trong việc thực hiện hợp đồng. Giáo dục về kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp, những quy định về vệ sinh an toàn lao động. Cục quản lý lao động ngoài nước trực thuộc Bộ lao động thương binh xã hội có trách nhiệm phát hành tài liệu tối thiểu cho từng
Tài liệu liên quan