Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - an ninh quốc phòng. Đồng thời là một địa bàn phức tạp về tôn giáo, bên cạnh những tín ngưỡng - tôn giáo cổ truyền còn một số tôn giáo được du nhập và phát triển vào những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đạo Tin lành là một trong những tôn giáo như thế.
Đạo Tin lành xâm nhập vào Pleiku Gia Lai từ 1930 - 1931 do giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp Mỹ (CMA), cho đến năm 1975 đạo Tin lành có sự phát triển khá rộng và bám rễ khá sâu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sau năm 1975 đạo Tin lành ở Tây Nguyên nói chung, tỉnh Gia Lai nói riêng do nhiều nguyên nhân có sự suy giảm. Nhưng đến năm 1980, đạo Tin lành ở đây bắt đầu phục hồi và phát triển cả bề rộng và bề sâu ở nhiều dân tộc và nhiều vùng khác nhau (tổng số có 1.732 tín đồ ở 8/9 huyện, thị). Đến năm 2000 Tin lành đã phát triển 53.941 tín đồ ở 10/13 huyện, thị và trên 104/171 xã, phường) và hiện nay ở tỉnh Gia Lai có 05 phái Tin lành: Gồm Hội thánh Tin lành Miền Nam, Hệ Phái Liên Hữu Cơ Đốc, Hệ Phái Ngũ Tuần, Hệ Phái Cơ Đốc truyền giáo và Hệ Phái Cơ Đốc Phụ Lâm.
Tôn giáo không chỉ là hiện tượng xã hội, văn học, đạo đức, tâm linh mà là vấn đề chính trị phức tạp, nóng bỏng, nhất là khi các thế lực chính tự lợi dụng tôn giáo kết hợp với vấn đề dân tộc để thực hiện ý đồ chính trị, thì vấn đề càng phức tạp hơn nhiều. Do địa bàn Gia Lai luôn được các thế lực thực dân, đế quốc tìm mọi cách để tách khỏi lãnh thổ Việt Nam, trong quá trình thực hiện ý đồ đó các thế lực phản động luôn triệt để khai thác lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc trên địa bàn tạo nên sự bất ổn định về chính trị - xã hội. Như thực tế năm1999, được Mỹ hậu thuẫn, nhóm người thượng lưu vong phản động (Fulrô cũ) đã thành lập ra cái gọi là “Nhà nước ĐêGa” lưu vong ở Mỹ. Chúng đã móc nối vào trong nước, gom dựng lại số Fulrô cũ, đồng thời khai thác sự chênh lệnh về đời sống văn hóa xã hội giữa người kinh với đồng bào dân tộc ít người, phục hồi tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa ly khai biệt phái để thực hiện âm mưu xây dựng một “Nhà nước ĐêGa độc lập”. Chúng đã mượn hình thức sinh hoạt Tin lành mà chúng gọi là “Quốc đạo’’, hình thành các tụ điểm để hoạt động, Tuyên truyền tư tưởng ly khai và lập ra cái gọi là “Tin lành ĐêGa” - Một tổ chức chính trị phản động đội lốt tôn giáo, lôi kéo các mục sư, truyền đạo và tín đồ Tin lành là người dân tộc ở vùng Tây nguyên nói chung và ở tỉnh Gia Lai nói riêng đi theo cái gọi là “ Nhà nước ĐêGa độc lập” để chống phá ta trước mắt cũng như lâu dài.
Với những lý do nói trên, chúng tôi chọn việc nghiên cứu “” để làm luận văn tốt nghiệp.
83 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 5218 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và công tác phòng - Chống định lợi dụng đạo Tin lành ở Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - an ninh quốc phòng. Đồng thời là một địa bàn phức tạp về tôn giáo, bên cạnh những tín ngưỡng - tôn giáo cổ truyền còn một số tôn giáo được du nhập và phát triển vào những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đạo Tin lành là một trong những tôn giáo như thế.
Đạo Tin lành xâm nhập vào Pleiku Gia Lai từ 1930 - 1931 do giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp Mỹ (CMA), cho đến năm 1975 đạo Tin lành có sự phát triển khá rộng và bám rễ khá sâu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sau năm 1975 đạo Tin lành ở Tây Nguyên nói chung, tỉnh Gia Lai nói riêng do nhiều nguyên nhân có sự suy giảm. Nhưng đến năm 1980, đạo Tin lành ở đây bắt đầu phục hồi và phát triển cả bề rộng và bề sâu ở nhiều dân tộc và nhiều vùng khác nhau (tổng số có 1.732 tín đồ ở 8/9 huyện, thị). Đến năm 2000 Tin lành đã phát triển 53.941 tín đồ ở 10/13 huyện, thị và trên 104/171 xã, phường) và hiện nay ở tỉnh Gia Lai có 05 phái Tin lành: Gồm Hội thánh Tin lành Miền Nam, Hệ Phái Liên Hữu Cơ Đốc, Hệ Phái Ngũ Tuần, Hệ Phái Cơ Đốc truyền giáo và Hệ Phái Cơ Đốc Phụ Lâm.
Tôn giáo không chỉ là hiện tượng xã hội, văn học, đạo đức, tâm linh mà là vấn đề chính trị phức tạp, nóng bỏng, nhất là khi các thế lực chính tự lợi dụng tôn giáo kết hợp với vấn đề dân tộc để thực hiện ý đồ chính trị, thì vấn đề càng phức tạp hơn nhiều. Do địa bàn Gia Lai luôn được các thế lực thực dân, đế quốc tìm mọi cách để tách khỏi lãnh thổ Việt Nam, trong quá trình thực hiện ý đồ đó các thế lực phản động luôn triệt để khai thác lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc trên địa bàn tạo nên sự bất ổn định về chính trị - xã hội. Như thực tế năm1999, được Mỹ hậu thuẫn, nhóm người thượng lưu vong phản động (Fulrô cũ) đã thành lập ra cái gọi là “Nhà nước ĐêGa” lưu vong ở Mỹ. Chúng đã móc nối vào trong nước, gom dựng lại số Fulrô cũ, đồng thời khai thác sự chênh lệnh về đời sống văn hóa xã hội giữa người kinh với đồng bào dân tộc ít người, phục hồi tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa ly khai biệt phái để thực hiện âm mưu xây dựng một “Nhà nước ĐêGa độc lập”. Chúng đã mượn hình thức sinh hoạt Tin lành mà chúng gọi là “Quốc đạo’’, hình thành các tụ điểm để hoạt động, Tuyên truyền tư tưởng ly khai và lập ra cái gọi là “Tin lành ĐêGa” - Một tổ chức chính trị phản động đội lốt tôn giáo, lôi kéo các mục sư, truyền đạo và tín đồ Tin lành là người dân tộc ở vùng Tây nguyên nói chung và ở tỉnh Gia Lai nói riêng đi theo cái gọi là “ Nhà nước ĐêGa độc lập” để chống phá ta trước mắt cũng như lâu dài.
Với những lý do nói trên, chúng tôi chọn việc nghiên cứu “Đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và công tác phòng - chống định lợi dụng đạo Tin lành ở Gia Lai” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân của sự xâm nhập, phát triển đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và việc các thế lực thù địch lợi dụng đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai để thành lập “Tin lành ĐêGa” chống phá ta. Trên cơ sở đó xác định đúng nội dung phòng - chống và đề ra những giải pháp, kiến nghị giải quyết đối với việc phát triển đạo Tin lành hiện nay ở tỉnh Gia Lai.
Để thực hiện mục đích trên đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Nêu rõ thực trạng đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
- Khái quát những nét lớn trong công tác phòng chống địch lợi dụng đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
- Đề xuất những giải pháp kiến nghị góp phần đấu tranh chống địch lợi dụng đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
3. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
- Phạm vi: tập trung nghiên cứu thực trạng đạo Tin Lành trong vùng đồng bào thiểu số, âm mưu của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc để thành lập "Nhà nước Đê Ga" ở Gia Lai trong những năm gần đây.
- Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những yêu cầu trên, việc thực hiện đề tài này chủ yếu sử dụng các phương pháp luận Mác - Lênin, phương pháp tổng kết thực tiễn, phân tích tổng hợp, thống kê, phân loại so sánh...
4. Những nét mới của đề tài
- Qua phân tích đánh giá nguyên nhân phục hồi, phát triển đạo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai chỉ ra được âm mưu, phương thức thủ đoạn mới của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng dân tộc, tôn giáo thành lập "Tin Lành Đê Gia" và "Nhà nước Đê Ga".
- Dự báo xu hướng phát triển của Tin lành trên địa bàn tỉnh trong những năm tới.
- Góp phần đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề Tin lành xâm nhập và lợi dụng đồng bào dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, các phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương I
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN ĐẠO TIN LÀNH TRÁI PHÉP TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI GIA LAI
1.1. TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN KINH TẾ - XÃ HỘI, DÂN TỘC, TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI PHÉP Ở GIA LAI
1.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội
Gia Lai là một tỉnh nằm ở miền Trung Tây Nguyên, được tách ra từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum, theo quyết định của Quốc hội khóa 8, kỳ họp thứ 9, tháng 8-1991. Diện tích tự nhiên là 16.526 km2. Phía bắc giáp tỉnh Kon Tum; phía Nam giáp tỉnh Đắc Lắc; phía Đông giáp tỉnh Bình Định, Phú Yên; phía Tây giáp tỉnh Ratanakiri (Cămpuchia), với đường biên giới dài 90 km. Gia Lai là một trong những tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh.
Tỉnh Gia Lai có 12 huyện và 1 thành phố với 171 xã, phường, trong đó có 2 huyện, 7 xã biên giới, 10 huyện, 37 xã vùng sâu vùng xa. Số dân trên 892.866 người. Người Kinh chiếm 50,54%, các dân tộc thiểu số khác chiếm 49,46% dân số toàn tỉnh.
Do điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn cư trú nên vùng dân tộc thiểu số mang những nét riêng của miền núi vàTây Nguyên. Đồng bào dân tộc thiểu số sống bằng nghề nông, làm nương rẫy, sản xuất tự cung tự cấp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Một bộ phận khá lớn của dân cư, gồm 26.351 hộ, 176.071 nhân khẩu còn du canh du cư, hay đã định cư, chưa định canh. Đối với bộ phận này, tình trạng canh tác theo lối chọc trỉa, đốt rừng làm rẫy là chủ yếu, năng suất lao động thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn.
Ở Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng, đến những năm 30 của thế kỷ này, xã hội truyền thống vẫn còn chế độ thị tộc, bộ lạc. Quan hệ xã hội bó hẹp trong phạm vi buôn, làng. Đứng đầu buôn làng là các thủ lĩnh dân tộc, có năng lực giao tiếp xã hội, có tri thức và có tiềm năng kinh tế. Hôn nhân và gia đình theo chế độ mẫu hệ, con trai lấy vợ thì ở rể bên nhà vợ và con cái theo họ mẹ.
Do trình độ phát triển kinh tế, xã hội còn thấp nên vai trò của người có địa vị, có uy tín trong xã hội truyền thống rất quan trọng, như thủ lĩnh dân tộc, vua lửa (hỏa xá), vua nước (thủy xá), thày cúng, trí thức dân tộc... Vua lửa, vua nước, thầy cúng không có quyền lực trong bộ máy cai trị, nhưng họ nắm dân thông qua thần quyền, tục quyền. Đây cũng là đặc điểm quan trọng mà các giáo sĩ Tin lành Pháp, Mỹ rất chú ý lợi dụng, tranh thủ để qua đó nắm dân, để tuyên truyền, phát triển đạo.
Trong vùng dân tộc thiểu số còn tồn tại nhiều phong tục, tập quán lạc hậu... Do đời sống kinh tế khó khăn, phương tiện sản xuất thô sơ, sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, do trình độ dân trí thấp, nên quần chúng rất tin vào Giàng (thần). Họ luôn trông chờ vào sự giúp đỡ, che chở của Giàng, hay là những lực lượng siêu nhiên khác. Cũng chính vì vậy, họ chỉ quan tâm những vấn đề thiết thực đối với cuộc sống hàng ngày của họ, mang lại lợi ích cụ thể trước mắt cho họ. Họ chỉ tin, nghe theo những gì họ có thể nhìn thấy sờ thấy. Mặt khác, do sống xen kẽ với người Kinh, một dân tộc có đời sống và dân trí cao hơn, thì đồng bào dân tộc thiểu số lại luôn có tư tưởng mặc cảm, tâm lý tự ti. Và nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở đây sống chân thận, chất phác, đơn giản và dễ hiểu. Đối với người dân tộc thiểu số, tệ ăn cắp, lấy vợ lấy chồng cùng dòng họ sẽ bị già làng phạt nặng, như phạt trâu, bò, heo, gà, rượu, chiêng...
Trong dân tộc Jarai và Banar, mỗi làng đều xây dựng một nhà rông, biểu hiện sự mạnh mẽ, vững chắc, dùng cho thanh niên sinh hoạt và nghỉ ngơi, hay là nơi tụ tập để già làng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong làng.
1.1.2. Đặc điểm về dân tộc
Tỉnh Gia Lai có 13 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh (50,54% dân số toàn tỉnh), tiếp đến là Jarai (34,32%) và Banar (14,98%), các dân tộc còn lại chỉ chiếm 0,16%.
Về cơ cấu dân cư - dân tộc, có thể chia thành ba nhóm:
- Nhóm dân cư - dân tộc bản địa, chủ yếu là 2 dân tộc Jarai và Banar. Đây là hai dân tộc có quá trình cư trú, phát triển tộc người lâu đời ở Gia Lai. Đồng bào các dân tộc này cư trú hầu hết các các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, như các huyện Ayunpa, Chư Prông, Chư Sê, Mang Yang... Đây cũng là bộ phận dân cư mà đạo Tin lành xâm nhập, phục hồi, phát triển mạnh trong những năm qua.
- Nhóm dân tộc thiểu số từ nơi khác đến như Tày, Nùng, Hoa, Xá, Mông, Sán dìu... Trong số này, chủ yếu là di cư từ miền núi phía Bắc vào, thời kỳ 1952-1954 do đi làm đồn điền, đi lính cho Pháp; và thời kỳ sau chiến tranh biên giới 1979. Ngoài ra một số người là do đi kinh tế mới hay di dân tự do mấy năm gần đây. Nhóm dân tộc này cư trú rải rác ở vùng cao, vùng sâu và ở xen kẽ với các dân tộc bản địa.
- Dân tộc Kinh chiếm 50,54% dân số toàn tỉnh, sống lâu đời ở Gia Lai. Họ cư trú hầu hết ở thị xã, thị trấn, ven các trục đường giao thông, các khu vực nông trường, kinh tế mới.
- Bên cạnh những yếu tố chung và tính thống nhất trong cộng đồng lãnh thổ, các dân tộc thiểu số có những đặc điểm riêng về nguồn gốc, lịch sử và phát triển kinh tế xã hội, về đặc điểm tâm lý và truyền thống văn hóa. Những đặc điểm đó ít nhiều ảnh hưởng đến tín ngưỡng, tôn giáo và chịu sự tác động trở lại của nó.
Tổ chức xã hội của cộng đồng người Jarai, Banar là làng, buôn có kết cấu chặt chẽ, làng có hoạt động tự quản với phương thức vận hành xã hội theo luật tục được tồn tại lâu đời và ảnh hưởng đến ngày nay (mặc dù có sự biến đổi).
Trong xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp rõ rệt mà chỉ là sự phân biệt người giàu, nghèo, các thành viên trong cộng đồng làng phần lớn là những người có cùng huyết thống. Tuy nhiên theo đà phát triển của xã hội và sự xâm nhập của tôn giáo đang phá vỡ tính khép kín, tính cố kết cộng đồng làng.
Trong xã hội cổ truyền người dân tộc, gia đình đóng vai trò hết sức quan trọng, mỗi gia đình là một cộng đồng nhỏ gồm nhiều thế hệ và duy trì chế độ mẫu hệ cho đến nay.
Nhìn chung, các dân tộc ở Gia Lai có mối quan hệ đoàn kết gắn bó và có sự giao lưu trao đổi kinh tế, xã hội và văn hóa. Các dân tộc ở Gia Lai có tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước trước đây, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Nhiều làng, xã là căn cứ cách mạng từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Gia Lai cũng là nơi có nhiều cán bộ, trí thức, anh hùng rất nổi tiếng là người dân tộc thiểu số, điển hình là anh hùng Núp.
1.1.3. Đặc điểm về tín ngưỡng - tôn giáo
Tín ngưỡng - tôn giáo truyền thống tồn tại phổ biến trong các dân tộc thiểu số ở Gia Lai là thờ cúng đa thần. Họ cho rằng vạn vật hữu linh, có linh hồn và tin vào các loại thần linh, ma quỷ. Đặc biệt là các loại Giàng (thần) được họ tin nhất và tổ chức cúng quanh năm. Khi cúng Giàng, họ làm cây nêu treo giữ xung quanh, trước nhà rông. Các lối đi trong làng được cắm cành lá, không cho người ở nơi khác đến. Trong những ngày cúng, họ giết mổ rất nhiều trâu, bò, heo, gà, uống rượu ghè (rượu cần); tổ chức ăn uống nhiều ngày liền, hết sức tốn kém về tiền của, thời gian, công sức. Ý nghĩa cúng Giàng là để cầu may mắn mọi mặt đến với họ.
Ngoài ra đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn duy trì việc cúng Bong Bpao, Xa cà pô (lễ ăn trâu) với ý nghĩa để quyết định những vấn đề lớn, củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng. Việc này chỉ có nam giới tham gia, còn phụ nữ không được tham gia. Các lễ cúng bỏ mả (Bthi) cúng giọt nước (nước máng), cúng năm mới, cúng ma... đều kèm theo ăn uống rượu, thịt nhiều ngày, nhiều đêm.
Việc cúng bái theo truyền thống đến nay vẫn là gánh nặng đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vốn đời sống đã hết sức khó khăn, thiếu thốn; nhưng nó cũng không giải quyết được vấn đề họ mong muốn. Cùng với những tác động của thời đại, khi giao lưu được mở rộng, trình độ dân trí được nâng lên, các tín ngưỡng tôn giáo cổ truyền bắt bắt đầu lung lay, mất dần sự thuyết phục, và tất nhiên nó phải nhường chỗ cho những tín ngưỡng tôn giáo hợp thời hơn.
Tín ngưỡng cổ truyền hình thành và duy trì trong cộng đồng các dân tộc thiểu số một cách giải thích về thế giới bên ngoài, đồng thời là một chỗ dựa về tinh thần trong cuộc sống có nhiều khó khăn bất trắc của họ. Thông qua các lễ hội tôn giáo cổ truyền mà liên kết giữa cá nhân với gia đình và cộng đồng được củng cố. Bên cạnh đó, các lễ nghị như tục chia của cho người chết, lễ tạ thần linh giúp cho mùa màng bội thu..., xét về mặt đạo đức, nó giáo dục cho các thành viên trong cộng đồng ý thức về quan hệ tương thân tương ái, ăn quả nhớ người trồng cây...
Giữa thế kỷ 19, Công giáo được truyền lên Tây Nguyên, trong đó có Gia Lai. Tuy nhiên, Công giáo đã gặp những trở lực và xung đột từ phía tín ngưỡng cổ truyền, vi nó cấm việc thờ cúng Giàng, cúng ma; bắt phải bỏ thờ đa thần, chỉ được thờ một mình chúa Jêsu. Tuy nhên trải qua năm tháng, Công giáo đã đứng vững, ăn sâu, bám rễ chắc chắn ở Tây Nguyên và Gia Lai. Một bộ phận khá đông đồng bào dân tộc thiểu số đã từ bỏ thờ cúng đa thần chuyển sang Công giáo, thờ cúng một thần.
Cho đến nay, ở Gia Lai có khoảng 60.000 tín đồ Công giáo, trong đó có khoảng 35% tín đồ là người dân tộc thiểu số, có 14 linh mục, 3 tu sĩ, 53 nữ tu, 39 xứ họ đạo.
Đạo Tin lành có mặt ở Gia Lai đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Đến nay có hơn 60.000 tín đồ, 3 mục sư, 10 truyền đạo, hơn 300 hội thánh cơ sở với khoảng 500 người trong ban chấp sự.
Đạo Phật, tuy đứng chân ở Gia Lai muộn hơn Công giáo, nhưng hiện nay có 62.795 tín đồ, 67 cơ sở thờ tự; số chức sắc gồm có 2 hòa thượng, 1 thượng tọa, 55 đại đức, 38 sa di.
Ngoài ra có một số tôn giáo khác được du nhập như Cao đài, Bà hai... nhưng chưa được công nhận, chưa được phép hoạt động trở lại.
Có thể thấy rằng, tín ngưỡng tôn giáo ở Gia Lai khá phức tạp, có sự đan xen lẫn tín ngưỡng cổ truyền với tôn giáo ngoại nhập, có tôn giáo được hoạt động công khai, có đủ tư cách pháp nhân; có tôn giáo bị cấm hoạt động, chưa được công nhận tư cách pháp nhân... Nhưng điểm chung của các tôn giáo này là đang tìm mọi cách để phục hồi, phát triển, thu hút tín đồ, đào tạo chức sắc, xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự... Thực tế cho thấy những tôn giáo phát triển được ở Gia Lai đều phải tự hạn chế tính chất cực đoan của nó và phải hòa đồng, phải chấp nhận chung sống (ở một mức độ nào đó) với tín ngưỡng cổ truyền của cư dân bản địa.
1.2. QUÁ TRÌNH XÂM NHẬP PHÁT TRIỂN ĐẠO TIN LÀNH Ở GIA LAI
1.2.1. Sơ lược đạo Tin lành ở Việt Nam
Đạo Tin lành được truyền bá vào Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Hội truyền giáo Phúc âm Liên hiệp của Tin lành Mỹ (The Christian and Missona Ng Alliace - CMA). Từ năm 1887 đến 1901, các mục sư Tin lành Mỹ đã lần lượt đến nhiều nơi ở Việt Nam để nghiên cứu truyền đạo như mục sư Faffray, Hoster từ Trung Quốc đến Đà Nẵng và lập ra hội thánh đầu tiên năm 1911. Đến năm 1915 khu vực truyền giáo ở Việt Nam được hình thành với các giáo sỹ ngoại quốc. Khi chiến tranh thế giới lần II nổ ra, muợn cớ các giáo sỹ CMA làm gián điệp cho Đức, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương đã cấm Tin lành hoạt động. Các nhà thờ Tin lành lại đóng cửa và có tới gần một nửa giáo sỹ Tin lành phải rời khỏi Việt Nam.
Năm 1916, theo đề nghị của mục sư Faffray với tư cách Phó hội trưởng Hội truyền giáo ở Trung Quốc, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã cho phép các giáo sĩ Tin lành được tự do truyền đạo. Vì vậy, đến năm 1918 CMA đã thành lập được 5 chi hội ở Bắc Kỳ, 6 chi hội ở Trung Kỳ và 5 chi hội ở Nam Kỳ đều lấy tên là “Hội thánh Tin lành Đông Pháp” nhằm tránh sự chú ý của Pháp.
Đến năm 1926, vì lo ngại sự ảnh hưởng của Mỹ ở Châu á, đạo Tin lành lại bị Pháp cấm hoạt động, đến năm 1927 lệnh này được huỷ bỏ. Năm 1928 đại hội lần thứ V, Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam (TLHTTLVN) thông qua điều lệ xác định tổ chức Tin lành với 3 cấp: Chi hội, Địa hạt và Tổng liên hội. Ngày 19/2/1942 Toàn quyền Pháp mới cộng nhận chính thức ban quản trị Hội thánh Tin lành Việt Nam.
- Đạo Tin lành xâm nhập vào vùng dân tộc ít người từ năm 1929, đầu tiên là vùng Đà Lạt - Lâm Đồng, sau đó đến các tỉnh khác ở Tây Nguyên. Đến năm 1936 kinh thánh đã được dịch sang tiếng thượng, đến năm 1954 sau hơn 40 năm phát triển, đạo Tin lành ở Việt Nam đã có tới 60.000 tín đồ, gần 100 mục sư, truyền đạo.
- Năm 1958 được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, số mục sư và tín đồ ở Miền Bắc lập ra tổ chức giáo hội lấy tên là Tổng hội Tin lành Việt Nam gọi tắt là Hội thánh Tin lành miền Bắc, tách khỏi sự chỉ đạo của CMA.
- Ở Miền Nam năm 1954, dựa vào sự hỗ trợ của Tin lành Mỹ Hội thánh Tin lành ở Miền nam đẩy mạnh hoạt động, do vậy thời gian này Tin lành ở Miền nam phát triển nhanh chóng.
Về tổ chức đã lập thêm 5 địa hạt, nhiều hệ phái Tin lành xuất hiện. Trong giai đoạn từ 1945 - 1975 đạo Tin lành ở Tây Nguyên và vùng dân tộc thiểu số, miền núi được quan tâm chú ý, đặc biệt tăng cường cho truyền bá, phát triển đạo. Đạo Tin Lành đã lập ra 2 trường đào tạo ở Đà Lạt và Buôn Ma Thuật. Vì vậy đến năm 1965 đạo Tin lành ở Tây Nguyên đã có hơn 27.000 tín đồ, 105 nhà thờ, 14 mục sư, 77 truyền đạo.
Đến năm 1975 ở Tây nguyên có 15 hệ phái, có 38.827 tín đồ, trong đó 83% là dân tộc thiểu số ở hai địa hạt Trung thượng hạt, Nam thượng hạt, còn 17% tín đồ là người kinh thuộc 2 địa hạt là Nam trung bộ (Nha trang) và trung bộ (Đà Nẵng) với 212 mục sư, truyền đạo và 124 nhà thờ.
1.2.2. Khái quát về quá trình xâm nhập, phát triển đạo Tin lành ở Gia Lai qua các thời kỳ
* Giai đoạn từ 1930 - 1975
Đạo Tin lành xâm nhập vào Gia Lai từ 1930 - 1931 do giáo sỹ thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp Mỹ (CMA) lên Pleiku truyền đạo. Thời điểm khởi đầu chủ yếu truyền vào vùng người kinh. Trong khi đó đạo thiên chúa giáo đang ở thời điểm phát triển mạnh ở Gia Lai. Vì vậy, trong thời gian hơn 10 năm Tin lành mới có khoảng 70 - 80 tín đồ người kinh với một Hội thánh nhỏ tại Pleiku. Đây là một số người ở vùng khác di dân lên Pleiku sinh sống và một số ít người mới theo đạo. Đến năm 1940 mục sư người Việt là Phạm Xuân Tín được cử lên Pleiku để thực hiện công cuộc truyền giáo của Tin lành. Năm 1950 mục sư Trương Văn Sáng được cử lên thay Phạm Xuân Tín. Năm 1951 với sự giúp đỡ của CMA Hội thánh Pleiku mua đất ở đường Nguyễn Thái Học xây dựng một nhà thờ và cử Mục sư Măng Gan, cùng một số mục sư Việt lên hoạt động.
Cùng với sự có mặt của lính Mỹ tại Gia Lai và sự phát triển của căn cứ quân sự Mỹ, đây là thời điểm phát triển mạnh của đạo Tin lành. Bên cạnh việc củng cố tổ chức giáo hội người kinh, CMA chú tâm phát triển đạo vào vùng dân tộc thiểu số, nhất là những làng nằm ở xung quanh các căn cứ quân sự Mỹ. Nhằm tạo một vành đai xã hội bên ngoài chống sự thâm nhập của ta.
Cùng với tuyên truyền phát triển tín đồ, Tin lành tiến hành xây dựng một số nhà nguyện tại các làng và xây dựng một trung tâm truyền giáo cho dân tộc (66 Nguyễn Thái Học), một trung tâm truyền giáo cho phụ nữ Gia Lai (đường Lê Lợi nối dài), đồng thời lựa chọn người đưa đi đào tạo mục sư, truyền đạo.
Đến năm 1967 về cơ cấu tổ chức Tin lành Gia Lai được phân thành hai hệ (người kinh và người thượng) tách biệt nhau và chịu sự chỉ đạo của hai hạt riêng biệt. Về lực lượng truyền giáo, Tin lành chủ yếu đưa số trẻ có năng lực là người dân tộc đi đào tạo tại Nha Trang và Đắc Lắc. Đồng thời chúng còn tập trung giáo sĩ, trí thức là người nước ngoài đi sâu vào học hỏi tìm hiểu tiếng nó