Thế giới bước vào thế kỷ 21 với những nét đặc trưng riêng mà trước đó chưa từng có, đó là quá trình toàn cầu hoá diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống con người, nó thu hút tất cả mọi thể trên trái đất vào vòng xoáy toàn cầu hoá. Với quá trình này, nó làm cho con người ngày càng phụ thuộc chặt chẽ nhau hơn, khoảng cách giữa các quốc gia xích lại gần nhau hơn, khái niệm biên giới được hiểu theo nghĩa rộng hơn và đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thì nó tạo ra cơ hội vừa tạo ra những thách thức vô cùng khó khăn.
Quá trình đổi mới, cải cách kinh tế và hội nhập khu vực và toàn cầu của Việt Nam trong hơn 15 năm qua đã thu được những thành công rất có ý nghĩa trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội, công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước (CNH – HĐH). Kinh tế phát triển, xuất khẩu được đẩy mạnh, quan hệ quốc tế rộng khắp. Đó thực sự là những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của Việt Nam.
Đóng góp vào thành công của Việt Nam, còn có sự đóng góp quan trọng của những nguồn nhân lực từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Invesment). Việt Nam đã và đang có những thuận lợi, những cơ hội và cả những thách thức lớn trong quá trình thu hút FDI.
Với mong muốn góp phần vào việc xác định hướng đúng đắn cho hoạt động FDI trong thời gian tới, trên cơ sở nắm vững tình hình quốc tế cũng như trong nước, tiểu luận của em tập trung nghiên cứu về FDI với đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đối với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế”.
12 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đối với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thế giới bước vào thế kỷ 21 với những nét đặc trưng riêng mà trước đó chưa từng có, đó là quá trình toàn cầu hoá diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống con người, nó thu hút tất cả mọi thể trên trái đất vào vòng xoáy toàn cầu hoá. Với quá trình này, nó làm cho con người ngày càng phụ thuộc chặt chẽ nhau hơn, khoảng cách giữa các quốc gia xích lại gần nhau hơn, khái niệm biên giới được hiểu theo nghĩa rộng hơn và đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thì nó tạo ra cơ hội vừa tạo ra những thách thức vô cùng khó khăn.
Quá trình đổi mới, cải cách kinh tế và hội nhập khu vực và toàn cầu của Việt Nam trong hơn 15 năm qua đã thu được những thành công rất có ý nghĩa trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội, công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước (CNH – HĐH). Kinh tế phát triển, xuất khẩu được đẩy mạnh, quan hệ quốc tế rộng khắp. Đó thực sự là những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của Việt Nam.
Đóng góp vào thành công của Việt Nam, còn có sự đóng góp quan trọng của những nguồn nhân lực từ bên ngoài, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Invesment). Việt Nam đã và đang có những thuận lợi, những cơ hội và cả những thách thức lớn trong quá trình thu hút FDI.
Với mong muốn góp phần vào việc xác định hướng đúng đắn cho hoạt động FDI trong thời gian tới, trên cơ sở nắm vững tình hình quốc tế cũng như trong nước, tiểu luận của em tập trung nghiên cứu về FDI với đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đối với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế”.
Nội dung
I . Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoàI :
Khái niệm:
Đầu tư nước ngoài là một trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của các công ty nhằm thu lợi khi thực hiện kinh doanh quốc tế với hai hình thức đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò quan trọng hơn hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance – ODA). ODA là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay vốn với những điều kiện đặc biệt ưu đãi nhằm giúp các nước chậm và đang phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. ở đây ta chỉ đề cập về đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN).
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (trích điều 2 trang 6): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Đặc điểm nổi bật của đầu tư trực tiếp nước ngoài là các nhà đầu tư tự kiểm soát quá trình hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Mục tiêu chính của các nhà đầu tư là tối đa hoá lợi nhuận.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài với tư cách là phương thức hoạt động chủ đạo của các công ty xuyên quốc gia không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính quốc tế, mà cùng với nó là sự chuyển giao công nghệ và các tài sản vô hình khác. Về thực chất đây là nhân tố tạo nên sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và dài hạn.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu:
Doanh nghiệp liên doanh:
Hình thức này doanh nghiệp được hình thành do sự góp vốn của các bên nước ngoài tham gia đầu tư và bên nhận đầu tư. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập có tư cách pháp nhân trong phạm vi luật pháp của nước chủ nhà. Các bên cùng góp vốn, cùng quản lý điều hành, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro.
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng:
Là hình thức phĩa nước đầu tư và nước nhận đầu tư tiến hành ký hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, … trên cơ sở các điều kiện có đóng góp của các bên về đất đai, nhà xưởng của phía nước chủ nhà; vốn công nghệ của các bên, không hình thành nhân mới.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Nước nhận đầu tư cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê đất, thuê nhân công, xí nghiệp, tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của nước nhận đầu tư, đơn vị đầu tư được thành lập có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà.
Ngoài các hình thức nêu trên, Luật bổ sung năm 2000 còn cho phép đa dạng hoá các phương thức đầu tư như phương thức “Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)”, phương thức “Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT)”.
Mỗi hình thức đầu tư đều có mặt mạnh và hạn chế nên tuỳ tình hình cần đa dạng hoá các phương thức đầu tư cho thích hợp để điều chỉnh cơ cấu chung của nền kinh tế và quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương cũng như cả nước.
II. Tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua:
Tình hình cấp giấy phép đầu tư:
Vốn đầu tư đăng ký:
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1987) đến thang 12 năm 2002 đã có gần 4030 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấp phép đầu tư với số vốn đăng ký đạt khoảng 50,2 tỷ USD. Trong đó thời kỳ 1988 – 1990 có 219 dự án với số vốn đăng ký khoảng 1,6 tỷ USD; thời kỳ 1991 – 1995 có 1398 dự án với số vốn đăng ký khoảng 16,24 tỷ USD; thời kỳ 1996 – 2000 có 765 dự án với số vốn đăng ký khoảng 11,6 tỷ USD.
Cơ cấu vốn đầu tư:
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đã thay đổi theo chiều hướng ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng CNH – HĐH. Nếu trong những năm trước đây vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh vực xây khách sạn, văn phòng cho thuê … thì giai đoạn hiện nay nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất, chiếm với 1/2 tổng số dự án và số vốn đầu tư, vốn cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng, chế biến, sử dụng hiệu quả tài nguyên và sử dụng nhiều lao động.
Đa dạng hóa hình thức doanh nghiệp đầu tư nước ngoài:
Mới đây, thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/ 23/ NĐ - CP về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Đây là chủ trương mang tính bứt phá của Việt Nam nhằm tạo điều kiện thông thoáng hơn đối với các nhà đầu tư, được cộng đồng nhà đầu tư trông đợi từ lâu.
Theo nội dung Nghị định, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải có 3 điều kiện chính để chuyển đổi thành công ty cổ phần:
Đã góp đủ vốn pháp định theo quy định tại giấy phép đầu tư.
Chính thức hoạt động 3 năm trong đó cuối năm cuối cùng trước khi chuyển đổi phải có lãi.
Có hồ sơ đề nghị chuyển đổi.
Như vậy, Nghị định mới của chính phủ đã tạo điều kiện đa dạng hoá hình thức công ty đầu tư nước ngoài, tạo quyền chủ động cao hơn trong quyết định đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, huy động thêm vốn để mở rộng sản xuất, tạo thêm nguồn hàng, đặc biệt là đầu vào cho thị trường chứng khoán hiện còn chưa sôi động ở nước ta.
Thực trạng triển khai dự án và tình hình chuyển đổi hình thức đầu tư:
2.1. Thực trạng triển khai dự án đầu tư:
Tính chung từ năm 1988 đến nay, đã có trên 580 dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn với quy mô vốn tăng thêm đạt khoảng7,5 tỷ USD, nâng tổng số vốn cấp mới và đã đăng ký bổ sung từ năm 1988 đến nay đạt khoảng 17 tỷ USD. Trừ các dự án hết hạn, giải thể trước hạn và cộng thêm khoảng 40 dự án đã cấp phép hiện còn 2738 dự án có hiệu lực với số vốn đăng ký đạt 40,3 tỷ USD. Riêng thời kỳ 1998 - 2000 có trên 350 dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn của 5 năm trước (1993-1997 là 2,4 tỷ USD).
Tuy nhiên, tổng vốn thực hiện cho tới cuối tháng 12/2002 đạt khoảng 24 tỷ USD, trong đó vốn bên ngoài đưa vào (gồm vốn góp của nước ngoài và vốn vay) khoảng 21,2 tỷ USD (chiếm gần 90% tổng vốn thực hiện). Trong đó vốn thực hiện thời kỳ 1988 - 1990 không đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng 0,20 tỷ USD; giai đoạn 1991 - 1995 khoảng 7,15 tỷ USD, trong đó phần đóng góp vốn của phía Việt Nam trên 1 tỷ USD (chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất); phần vốn nước ngoài đóng góp khoảng 6,1 tỷ USD (vốn góp trực tiếp của nước ngoàI 3,5 tỷ USD; vốn vay nước ngoài 2,6 tỷ USD). Thời kỳ 1996 - 2000 vốn thực hiện đạt khoảng 12,8 tỷ USD, tăng 80% so với 5 năm trước. Trong đó, nguồn vốn góp của bên Việt Nam là 1,2 tỷ USD, vốn góp của bên nước ngoàI là 11,6 tỷ USD.
Tỷ trọng vốn vay nước ngoài trong tổng vốn đầu tư thực hiện có xu hướng tăng dần trong những năm gần đây, từ mức 39,5% năm 1996 tăng lên 43,2% năm 1998, 56,5% năm 2000 và chiều hướng tăng hiện nay còn có khả năng tiếp tục trong thời gian tới.
Trong tổng số 2628 dự án có hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 36,3 tỷ USD thì đã có 1291 dự án (chiếm 49% tổng dự án còn hiệu lực) đã đi vào sản xuất, có doanh thu. Đồng thời, quy mô vốn đầu tư bình quân một dự án giai đoạn 1996 - 2000 cũng tăng gần gấp đôi so với một dự án đi vào sản xuất kinh doanh giai đoạn 1991 - 1995 (17,2 triệu USD/ 9,8 triệu USD/ 1 dự án). Riêng năm 2000 đã có 126 dự án với vốn đăng ký khoảng 1,7 tỷ USD hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào sản xuất kinh doanh.
Các dự án trên đã tạo tổng doanh thu gần 34 tỷ USD (không kể dầu khí), trong đó năm 2002 đạt 8 tỷ USD; xuất khẩu 15,2 tỷ USD, nộp ngân sách gần 2,2 tỷ USD chiếm 12,7%GDP cả nước.
Ngoài ra còn có 833 dự án (chiếm 32% số dự án còn hiện có hiệu lực) với vốn đăng ký 11,6 tỷ USD đang trong quá trình xây dựng cơ bản sẽ đi vào hoạt động trong năm 2003 - 2004 và 503 dự án đang làm thủ tục hành chính hoặc chưa triển khai.
2.2. Việc chuyển đổi hình thức đầu tư những năm gần đây.
Hình thức đầu tư chủ yếu năm 1999 là doanh nghiệp liên doanh chiếm 61% số dự án và 70% vốn đầu tư. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, đầu tư theo hình thức 100%vốn nước ngoài đã tăng lên rõ rệt, chiếm 55,5% tổng số dự án nhưng số vốn đăng ký chỉ chiếm 29,4%.
Trong năm 1999 có 30 dự án được chuyển đổi hình thức đầu tư, trong đó có: 26 dự án chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, 4 dự án chuyển thành doanh nghiệp 100%vốn trong nước.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới chuyển đổi là: bên liên doanh muốn rút vốn để chuyển mục tiêu kinh doanh - do hoạt động của bên liên doanh bị thua lỗ - bên Việt Nam tự nguyện chuyển nhượng cổ phần của mình để bảo toàn vốn; do bất đồng về chiến lược kinh doanh giữa các bên đối tác gây trở ngại cho việc điều hành hoạt động doanh nghiệp.
Điều kiện chuyển nhượng cổ phần Việt Nam để chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là bên nước ngoài chịu toàn bộ lỗ của liên doanh và chịu thanh toán cho Nhà nước Việt Nam tiền thuê đất hoặc giá trị sử dụng đất mà bên Việt Nam góp vốn cho tới khi chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được kế thừa doanh nghiệp liên doanh về mục tiêu, chức năng hoạt động theo đúng quy định hiện hành, bảo đảm việc làm và quyền lợi cho người lao động, nghĩa vụ đối với Nhà nước Việt Nam.
Gần đây, một số dự án khi chuyển nhượng của bên Việt Nam đối tác nước ngoài không chấp thanh toán cho bên Việt Nam giá trị quyền sử dụng đất bên Việt Nam góp vốn liên doanh, trong khi bên Việt Nam không có khả năng thanh toán nợ với Nhà nước như trường hợp công ty bê tông Việt - úc (Hà Tây) do đó chưa được chấp nhận chuyển đổi hình thức đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực chủ yếu:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung nào ngành công nghiệp và xây dựng với 1645 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký tính đến cuối năm 2000 đạt 20,8 tỷ USD; trong đó thời 1996 - 2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước. Tỷ trọng vốn trong tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào công nghệ và xây dựng không ngừng tăng, từ 41,5% giai đoạn 1988 - 1990 lên 52,7% giai đoạn 1991 - 1995 và 55,8% giai đoạn 1996 - 2000. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỷ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác.
Trong tổng số 1645 dự án đầu tư nước ngoài vào công nghiệp và xây dựng có 643 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp nhẹ; 635 dự án vào công nghiệp nặng; 13 dự án vào công nghiệp thực phẩm; 29 dự án vào công nghiệp dầu khí và 204 dự án vào xây dựng với tổng số vốn đầu tư tương ứng là: 4,05; 6,65; 2,28; 3,15 và 3,14 tỷ USD.
Ngành nông lâm, thuỷ sản tính đến 31/ 12/ 2002 có 468 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực trong đó có 352 dự án dầu tư nước ngoài vào nông - lâm nghiệp 116 dự án vào thuỷ sản với vôn đầu tư tương ứng là 2,57 tỷ USD và 108,5 triệu USD.
Lĩnh vực dịch vụ bao gồm giao thông vận tải, bưu điện, khách sạn - du lịch, tài chính - ngân hàng, văn hoá - y tế - giáo dục, xây dựng khu đô thị, văn phòng, căn hộ - xây dựng hạ tầng khu công nghệ - khu chế xuất và các dịch vụ khác thu hút được 636 dự án đầu tư nước ngoài kể từ năm 1988 đến 31/ 12/ 2000 với tổng vốn đầu tư 14,9 tỷ USD trong đó lĩnh vực du lịch - khách sạn chiếm 124 dự án với 3,5 tỷ USD vốn đầu tư, thứ hai là xây dựng văn phòng, căn hộ chiếm 118 dự án với tổng vốn đầu tư là 3,9 tỷ USD; giao thông - bưu điện chiếm vị trí số 3 với 93 dự án và tổng vốn đàu tư là 2,57 tỷ USD.
III. Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân:
Tác động tích cực:
Đầu tư nước ngoài trong gần 15 năm qua đã đáp ứng về cơ bản những mục tiêu đề ra khi xây dựng Luật đầu tư nước ngoài và đã góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội của đất nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành bộ phận quan trọng và có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại:
Chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài với việc ra đời Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là đúng đắn và kịp thời, đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế.
Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tăng nhanh qua các năm. Nếu như trong thời kỳ 1991 - 1995 đạt trên 7,15 tỷ USD thì thời kỳ 1996 - 2000 vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt trên 12,8 tỷ USD. Như vậy, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đã gấp 1,8 lần thời kỳ 1991 -1995, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài thực hiện so với GDP chung của cả nước tính bình quân trong 15 năm qua đạt 5,4%, trong đó thời kỳ 1998 - 2002 đạt trên 6%. Hoạt động của đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước, tạo khả năng chủ đông trong cân đối ngân sách, giảm bội chi.
Đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao nămg lực sản xuất kinh doanh của Việt Nam:
Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực đầu tư nước ngoài tăng nhanh chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu cả nước (42% hàng giày dép, 25% hàng may mặc và 84% hàng điện tử). Tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu tăng nhanh đạt 48,7%.
Ngoài ra, khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh đặc biệt là khách sạn và du lịch, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ và tiếp cận với các thị trường quốc tế.
Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH -HĐH phát triển lực lượng sản xuất:
Nếu đầu tư nước ngoài những năm gần đây tập trung nhiều vào lĩnh vực dịch vụ, kinh doanh bất động sản thì trong giai đoạn hiện nay đã tập trung chủ yếu vào công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đây là nhân tố quan trọng tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao năng lực công nghệ. Nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được du nhập vào nước ta tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước.
Đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và nguồn thu ngân sách:
Tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP tăng dần qua các năm (năm 2002 đạt gần 14%). Tổng nguồn thu ngân sách từ khu vực đầu tư nước ngoài trong 5 năm 1998 - 2000 đạt gần 1,75 tỷ USD.
Các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 36 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác như xây dựng cung ứng dịch vụ … Qua đầu tư nước ngoài người lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu công nghệ tiên tiến, … thích ứng với cơ chế lao động mới.
Đầu tư ngước ngoài góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới:
Với trên 60 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo thuận lợi cho Việt Nam ra nhập ASEAN, ký hiệp định chung với EU, ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ, đồng thời tăng cường thế và lực của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam:
Cho đến nay, các doanh nghiệp nước ta đã có 53 dự án đầu tư ra 15 nước và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đăng ký khoảng 49 triệu USD, chủ yếu trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, thương mại - dịch vụ, xây dựng. Thông qua các hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp nước ta có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và lao động ra nước ngoài.
Những hạn chế, tồn tại:
Công tác quy hoạch liên quan đến thu hút đầu tư nước ngoài còn chậm được thực hiện, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể:
Do quy hoạch ngành và lãnh thổ chưa hình thành, dự báo thiếu chuẩn xác, chưa lường hết những diễn biến phức tạp của thị trường nên đã cấp phép quá mức cho một số dự án như khách sạn, bia, nước ngọt … dẫn đến cung vượt quá cầu.
Đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản còn quá thấp, số dự án thành công không nhiều do gặp rủi ro, thiên tai, chưa xây dựng được mối quan hệ hợp đồng dài hạn với nông dân … đầu tư nước ngoài ở các tỉnh miền núi, nông thôn còn chưa đáng kể.
Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài có một số bất hợp lý; hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội của đầu tư nước ngoài chưa cao:
Đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi làm cho chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các vùng ngày càng lớn.
Chủ trương đa phương hoá nguồn đầu tư nước ngoài chưa thực hiện tốt. Phần lớn sản phẩm của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn tiêu thụ trong nước nhưng chưa có sản phẩm đạt trình độ quốc tế.
Hình thức thu hút đầu tư nước ngoài chưa phong phú:
Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu đồng bộ và ổn định.
Công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn những mặt yếu kém, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp.
IV. Những biện pháp nhằm thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam:
Định hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam:
Tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích các dự án đầu tư nước ngoài vào các ngành quan trọng như công nghiệp chế biến, công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, điện tử ……
Ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính, thu hút công nghệ hiện đại ……
Có chính sách ưu đãi đặc biệt thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào vùng sâu, vùng xa.
Chú trọng chất lượng hiệu quả dự án.
Thực hiện chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo khu vực.
Gắn việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài với bảo hộ sản phẩm trong nước và mở rộng thị trường khu vực và quốc tế.
Các giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam:
Giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Đây là yếu tố quyết định đến việc thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một xã hội ổn định, trật tự, sống theo Hiến pháp và Pháp luật là điều kiện cần thiết đối với các nhà đầu tư.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư.
Chúng ta cần chuẩn bị mặt bằng để tiến tới thống nhất luật đầu tư trong nước và nước ngoài. Những vấn đề cần xử lý là:
- Giữ nguyên các ưu đãi cho khu vực FDI trong 5 năm.
- Nâng dần ưu đãi đối với đầu tư trong nước bằng đầu tư nước ngoài.
- Phù hợp với lộ trình hội nhập và cam kết của các tổ chức khu vực, quốc tế.
Nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành hoạt động FDI.
- Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch liên quan đến FDI, làm cơ sở cho việc hướng dẫn và xét duyệt cấp giấy phép đầu tư.
- Tăng cường chất lượng phân cấp, uỷ quyền đồng thời p