Đầu tư ra nước ngoài là phương thức đầu tư vốn và tài sản ở nước ngoài ,để tiến hành sản xuất,kinh doanh ,dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Dưới góc độ tài chính quốc tế thì đó là sự chuyển một luồng vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để kinh doanh với mục đích là kiếm lợi nhuận cao. Quá trình đầu tư ra nước ngoài chịu ảnh hưởng tác động rất lớn của tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế và những rủi ro của các biến động kinh tế chính trị thế giới.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm dành quyền điều hành và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ đã bỏ vốn .
Theo nghi định của Chính Phủ số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, thì Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.
Bản chất của của đầu tư trực tiếp ra nứớc ngoài là sự di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn.Đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao .Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy mạnh mẻ quá trình CNH-HĐH ở các nước nhận đầu tư .
55 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận chung
I . Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp ra nứoc ngoài.
1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp ra nựớc ngoài.
Đầu tư ra nước ngoài là phương thức đầu tư vốn và tài sản ở nước ngoài ,để tiến hành sản xuất,kinh doanh ,dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Dưới góc độ tài chính quốc tế thì đó là sự chuyển một luồng vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để kinh doanh với mục đích là kiếm lợi nhuận cao. Quá trình đầu tư ra nước ngoài chịu ảnh hưởng tác động rất lớn của tỷ giá hối đoái trên thị trường quốc tế và những rủi ro của các biến động kinh tế chính trị thế giới.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm dành quyền điều hành và trực tiếp điều hành đối tượng mà họ đã bỏ vốn .
Theo nghi định của Chính Phủ số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, thì Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.
Bản chất của của đầu tư trực tiếp ra nứớc ngoài là sự di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn.Đó chính là hình thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao .Do đi kèm với đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc đẩy mạnh mẻ quá trình CNH-HĐH ở các nước nhận đầu tư .
1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế ,tức là nó đưa vốn ra nước ngoài tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh với nhiều mục đích khác nhau,có thể mục đích lợi nhuận,hay một mục đích chính trị nào khác .Nó có một số đặc điểm như sau:
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có đặc điểm khác với các nguồn vốn khác với các nguồn vốn đầu tư trong nước khác là việc xuất các nguồn vốn này không phải là một hình thức cho vay,đây không phải là một nguồn nợ đối với nước nhận vốn đầu tư.Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của nguồn vốn.Thay vì nhận được lãi suất trên vốn đầu tư ,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả .
- Chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc tham gia quản lý và điều hành quá trình thực hiện và vận hành dự án đầu tư tùy theo tỷ lệ góp vốn .
- Vốn đầu tư trực tiếp bao gồm vốn góp để hình thành vốn pháp định ,vốn vay hoặc vốn bổ sung từ lợi nhuận của doanh nghiệp để triển khai ,mở rộng dự án
- Thông qua vốn đầu tư của doanh nghiệp ,nước tiếp nhận vốn có thể tiếp thu khoa học công nghệ ,kỷ thuật tiến tiến ,kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước đi đầu tư hoặc là nước đi đầu tư sẽ tận dụng được sự phát triển của nước nhận đầu tư về nguồn nhân lực trình độ cao,cơ sở hạ tầng phát triển, phương tiện thông tin liên lạc hiện đại …Tạo mọi điều kiện thuận lợi mà bên trong nước của chủ đầu tư không có được,hoặc yêu cầu của dự án cần nền tảng tương thích mới có thể phát triển được.
1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh ( BCC).
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên( gọi là các bên hợp doanh) qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới .
Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có sự tham gia hay bên hợp doanh là nước nhận đầu tư, hợp đồng này khác với hợp đồng khác đó là nó phân chia kết quả kinh doanh và trách nhiệm của các bên cụ thể được ghi trong hợp đồng không áp dụng đối với hợp đồng thương mại, hợp đồng giao nhận sản phẩm, mua thiết bị trả chậm và các hợp đồng khác không phân chia lợi nhuận. Nội dung chính của hợp đồng này bao gồm:
Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên hợp danh.
Mục tiêu và phạm vi kinh doanh.
Sản phẩm tiêu thụ chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm trong nước
Quyền và nghĩa vụ của các bên hợp doanh.
Đóng góp của các bên hợp doanh, phân chia kết quả kinh doanh, tiến độ thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh được phép thỏa thuận thành lập ban điều phối để theo dõi giám sát công việc thực hiện hợp đồng, những ban điều phối không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh. Mỗi bên hợp doanh phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp luật và có nghĩa vụ tài chính tùy theo bên nước nhận đầu tư qui đình. Trong quá trình hoạt động các bên hợp doanh được quyền chuyển nhượng vốn cho các đối tượng khác nhưng cũng phải ưu tiên cho đối tượng đang hợp tác .
Hình thức này có đặc điểm :
- Hai bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng phân định trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi .
- Thời hạn hợp đồng do hai bên thõa thuận.
- Vấn đề nguồn vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề cập trong bản hợp
đồng.
1.3.2 Hình thức Doanh Nghiệp liên doanh.
Hình thức Doanh Nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau.Trên cơ sở góp vốn cùng kinh doanh, nhằm thực hiện cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp liên doanh, phù hợp với khuôn khổ luật pháp nước nhận đầu tư. Nhiều công ty thâm nhập thị trường nước ngoài bằng cách xây dựng một liên doanh với những công ty đóng tại thị trường đó. Hầu hết các liên doanh cho phép hai công ty tận dụng được các lợi thế so sánh tương đối riêng của chúng trong một đề án nhất định. Chẳng hạn hãng General Mill tiến hành liên doanh với Nestle SA, nhờ đó ngũ cốc được General Mill sản xuất có thể bán ra nước ngoài thông qua mạng lưới phân phối bán hàng do Néstle thiết lập. Hãng Xerox và Fuji của nhật đã tiến hành một liên doanh cho phép Xerox thâm nhập vào thị trường nhật và cho phép Fuji tham gia vào kinh doanh Photocopy.
Hình thức này có đặc điểm :
- Về pháp lý : Hình thức liên doanh là một pháp nhân của nước nhận đầu tư. Hoạt động theo luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức liên doanh do các bên tự thỏa thuận, phù hợp với các quy định của luật pháp của nước nhận đầu tư. Như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp vốn…Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên và quyền quản lý Doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của doanh nghiệp.
- Về tổ chức: Hội đồng quản trị của doanh nghiệp là mô hình chung cho mọi doanh nghiệp liên doanh, không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực, ngành nghề. Đây là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Doanh nghiệp liên doanh.
- Về kinh tế : Luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các bên trong liên doanh và cả các bên đứng phía sau các liên doanh. Đây là vấn đề hết sức phức tạp .
- Điều hành sản xuất kinh doanh: Quyết định sản xuất kinh doanh dựa vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu tư về việc vận dụng nguyên tắc nhất trí hay quá bán .
1.3.3 Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài :
Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh quốc tế có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài đóng góp 100% vốn pháp định, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .
Đặc điểm cơ bản của hình thức này là :
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân của nước nhận đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Hoạt động sản xuất kinh doanh theo nước nhận đầu tư và điều lệ của doanh nghiệp . Hình thức pháp lý của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ của pháp luật .Quyền quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm .
- Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .Phần kết quả của doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài .
- Nhà đầu tư nước ngoài tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề các vấn đề trong doanh nghiệp và các vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ của pháp luật cho phép .
1.3.4 Ngoài ra, tùy từng quốc gia có thể có các hình thức đầu tư trực tiếp khác như hình thức BOT;BTO; BT ; Hình thức cho thuê – bán thiết bị ; công ty cổ phần ; công ty quản lý vốn.
1.4 Vai trò của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1.4.1 Một số mô hình đầu tư ra nước ngoài:
a. Mô hình MacDougall-Kempt
Mục tiêu của mô hình chỉ ra rằng. Khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài, năng suất cận biên của việc sử dụng vốn giữa các nước chủ nhà có xu hướng cân bằng . Kết quả là các nguồn lực kinh tế được sử dụng có hiệu quả, tổng sản phẩm gia tăng và đem lại sự giàu có cho các nước tham gia đầu tư .
Mô hình được xây dựng dựa trên giả định sau:
+ Nền kinh tế thế giới được thực hiện bởi nước đầu tư và nước chủ nhà, trong đó nước đầu tư có sự dư thừa vốn còn nước chủ nhà lại khan hiếm về vốn đầu tư.
+ Năng suất cận biên của vốn đầu tư giảm dần và điều kiện cạnh tranh của 2 nước là hoàn hảo, giá cả của vốn đầu tư được qui định bởi luật này .
U
P
U
T
O1 S Q O2
Trong đó :
O1M : Năng suất cận biên ở nước đầu tư.
O2M : Năng suất cận biên ở nước đầu tư.
O1O2: Tổng vốn đầu tư của cả hai nước .
O1Q: Tổng vốn đầu tư của chủ nhà.
Trước khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nước đi đầu tư sản xuất được tổng sản phẩm là O1MTQ và của nước nhận đầu tư là O2mUQ. Giá cả sử dụng vốn ở nước nhận đầu tư là QT thấp hơn ở nước chủ nhà là QU, do đó vốn đầu tư sẽ chảy tư nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư (Q → S) cho đến khi năng suất cận biên của hai nước là bằng nhau:
SP = O1E = O2e
Tổng sản phẩm của hai nước là:
O1MTQ + O2MUQ
Sau khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Tổng sản phẩm của nước đi đầu tư là O1MPS và của nước tiếp nhận đầu tư là O2MPm. Lợi ích thu được từ hoạt động đầu tư nước ngoài :
- Tổng sản phẩm của hai nước sau khi có đầu tư nước ngoài là ( O1MPS + O2mPS ) và có sản lượng tăng thêm là PUTV. Như vậy kết quả là đầu tư nước ngoài đã góp phần làm tăng sản lượng thế giới.
- Mặc dù sản lượng của nước đi đầu tư giảm xuống một khoản là SPNQ nhưng điều đó không có nghĩa làm giảm thu nhập quốc dân, trái lại còn cao hơn khi thực hiện đầu tư. Bởi vì nguồn thu nhập gia tăng được gia tăng từ nước chủ nhà :
( Tổng nguồn thu nhập này = Gía cả sử dụng vốn x Tổng vốn đầu tư ở nước chủ nhà- SPQW )
Tương tự thu nhập của nước chủ nhà cũng tăng thêm một lượng bằng PWU. Một phần tăng của nước chủ nhà trả cho nước đi đầu tư SPWQ. Như vậy , đầu tư nước ngoài không chỉ làm tăng sản lượng của thế giới mà còn đem lại lợi ích cho cả nước đầu tư và nước chủ nhà.
Lý thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm :
Giả định : các nhà sản xuất đạt được lợi thế độc quyền xuất khẩu nhờ việc cho ra đời sản phẩm mới, hoặc cải tiến những sản phẩm đang được sản xuất dành riêng cho thị trường nước ngoài .
Trong giai đoạn đầu của vòng đời sản phẩm mới, giai đoạn thử nghiệm sản xuất được tiến hành tập trung tại chính quốc gia đó ( ngay cả khi chi phí sản xuất ở bên ngoài thấp hơn). Trong giai đoạn này để thâm nhâp thị trường nước ngoài, các công ty có thể thực hiện xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, khi sản phẩm trở nên tiêu chuẩn hóa trong giai đoạn phát triển, các nhà sản xuất sẽ khuyết khích việc đầu tư ra nước ngoài nhằm thu hút tận dụng lợi thế chi phí sản xuất thấp ( yếu tố đầu vào , ưu đãi của nhà nước ) và quan trọng hơn cả là nhằm ngăn chặn khả năng mất thị trường vào tay các nhà sản xuất địa phương.
1.4.2 Vai trò của đầu tư ra nước ngoài.
Đầu tư ra nước ngoài là một lĩnh vực mới trong chiến lược đầu tư ở nước ta. Ngày nay đầu tư ra nước ngoài ngày càng có vị trí quan trọng ,chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong công tác đầu tư của nền kinh tế ,thể hiện một vai trò hết sức lớn . Cụ thể vai trò của chúng được phân tích ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất : Tạo cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính .Đầu tư ra nước ngoài nó có lợi ích cho cả bên, bên nhận đầu tư và bên đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài là hình thức luân chuyển vốn dư thừa tương đối trong nước ra nền kinh tế khác ở nước ngoài. Nó giải quyết được vấn đề sử dụng số vốn thừa tương đối này sao cho có hiệu quả cao nhất…Việc mở rộng và phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các nguồn lực ra khỏi phạm vi của một quốc gia, với một phạm vi rộng hơn và môi trường khác hơn đó là trên bình diện quốc tế. Trong môi trường đó các nhà đầu tư có thể lựa chọn môi trường và lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài có lợi nhuận cao hơn đầu ở trong nước .
Thứ hai : Đầu tư ra nước ngoài tạo cơ hội mở rộng thị trường kinh doanh, tăng cường học hỏi kinh nghiệm kinh doanh, nâng vị thế hình ảnh của nước chủ đầu tư trên thị trường quốc tế. Khi đầu tư ra nước ngoài thì sẽ có cơ hội cung ứng sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp mình tại nước sở tại một cách hợp pháp, dễ dàng, không chịu các điều kiện ràng buộc ngặt nghèo khi xuất khẩu hàng hóa trực tiếp phải chịu. Đây là điều kiện tốt để thâm nhập sâu vào thị trường nội địa của nước sở tại, mở rộng thị trường tiêu thụ. Khi đầu tư vào một nước phát triển, với cơ sở vật chất và điều kiện hiện đại, tác phong công nghiệp. Đây là cơ hội tốt để hoàn thiện phương cách quản lý hiện đại của Doanh nghiệp mà trong nước không có điều kiện áp dụng, học tập cơ chế quản lý hiện đại .
Thứ ba : Thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế thể giới. Ngày nay, khu vực hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế đã trở thành xu thế mang tính thời đại. Mở rộng đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập quan hệ kinh tế quốc tế. Việc mở rộng hợp tác quốc tế nhằm mục đích kết hợp các yếu tố trong nước với các yếu tố nước ngoài và khai thác các có hiệu quả nguồn lực ngoài nước phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Việc mở rộng các quan hệ tài chính quốc tế thông qua các hình thức đầu tư ra nước ngoài góp phận thúc đẩy các nền kinh tế quốc gia nhanh chóng hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện nền kinh tế mang tính toàn cầu hóa cao độ, tính liên phụ thuộc nền kinh tế các nước ngày càng tăng lên, không một quốc gia nào tự mình giải quyết mọi vấn đề nếu không mở rộng giao lưu kinh tế với các nước khác. Đặc biệt đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Việc tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài giữa các nước với nhau là tất yếu dẫn đến sự di chuyển các nguồn lực tài chính từ các quốc gia này sang quốc gia khác. Hay nói cách khác thông qua hoạt động đầu tư giữa các nước với nhau các nguồn tài chính được phân phối trên phạm vi thế giới .Sự phân phối có tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, do vậy đòi hỏi mỗi một quốc gia nên cân nhắc trên cả khía cạnh sử dụng các nguồn lực trong nước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế, trên cả khía cạnh khai thác và sử dụng các nguồn lực ngoài nước phục vụ cho sự phát triển của quốc gia mình. Các nguồn lực di chuyển không chỉ là vốn mà quốc gia có thể có thể tranh thủ được công nghệ ,kỷ thuật tiên tiến ,giải quyết được vấn đề lao động…
2. Tính tất yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1 Vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế .
Toàn cầu hóa, xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ và rộng lớn những mối quan hệ ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau, trong các mối quan hệ kinh tế - thương mại của tất cả các khu vực, tiểu khu vực ,các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa là xu thế quốc tế hóa phát triển ở giai đoạn cao. Toàn cầu hóa là xu thế hướng đi đến hình thành một nền kinh tế thế giới thống nhất trên phạm vi toàn cầu, trong đó có sự tham gia của các quốc gia trên thế giới. Dưới tác động qua lại lẫn nhau ảnh hưởng phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau của các nền kinh tế ngày càng tăng, các yếu tố cản trở nền sản xuất càng mất đi bởi sự tự do hóa nền kinh tế và thương mại toàn cầu. Một đặc trưng cơ bản của toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới là sự phát triển nhanh chóng của quan hệ kinh tế - thương mại và quan hệ chủ yếu hàng hóa dịch vụ ,vốn , lao động…trên phạm vi toàn thế giới. Trong những mối quan hệ đó, các quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau, phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân công và hợp tác kinh doanh – thương mại trên phạm vi toàn cầu, có sự lưu thông hàng hóa dịch vụ, vốn, công nghệ, các nguồn nhân lực trên phạm vi toàn cầu, chịu sự điều tiết của các qui tắc chung toàn cầu. Chính vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu, quá trình mỗi quốc gia tạo điều kiện tự do hóa và hỗ trợ (theo cam kết song phương hoặc đa phương cấp chính phủ) cho hoạt động của các dòng vốn, hàng hóa, dịch vụ lao động qua biên giới nước mình theo cả hai chiều: dòng vào và dòng ra …Thực tiễn thế giới chứng tỏ rằng một nước mà dòng đầu tư ra nước ngoài càng mạnh thì càng có nhiều khả năng mở rộng thị trường, tăng cơ hội đầu tư kinh doanh, tăng việc làm và tăng động lực phát triển kinh tế đất nước. Mỹ, Nhật -những nước có nền kinh tế đứng nhất nhì thế giới – cũng đồng thời là những nước có dòng đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Đặc biệt, chính phủ Nhật Bản là tấm gương điển hình về sự quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Những hiệp định đầu tư cấp chính phủ được ký kết để mở lối và tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi, an toàn cho doanh nhân Nhật Bản triển khai các hoạt động kinh doanh của mình ở nước ngoài. Ngay cả các điều kiện kèm theo những khoản ODA và viện trợ khác ( thường là chỉ định nguồn cung cấp và chủ thầu…,cũng có mục tiêu ngầm, nhưng rất quan trọng và rõ ràng là tạo điều kiện cho các doanh nhân Nhật Bản bán được hàng, cung cấp thiết bị công nghệ hay trực tiếp đảm nhận tư vấn và tham gia triển khai nhiều dự án được tài trợ từ nguồn viện trợ của chính phủ Nhật Bản tại nước nhân viện trợ. Hoặc như Trung Quốc, không những đứng đầu các nước đang phát triển về kết quả thu hút FDI,mà từ hàng chục năm nay họ còn luôn có dòng đầu tư ra nước ngoài lớn hàng đầu trong nhóm các nước đang phát triển.Điều này góp phần giải thích vì sao hàng xuất khẩu của trung quốc vừa bành trướng ồ ạt,vừa len lỏi vững chắc vào tận hang cùng ngõ hẻm thị trường trên toàn thế giới –nhất là những nơi doanh nhân Trung Quốc đầu tư ra thành công như Mỹ , Liên Bang Nga và các nước SNG …
Song , đối với những nước mới tham gia hội nhập kinh tế quốc tế ,đặc biệt là nước tham gia WTO như nước ta ,thì vấn đề hỗ trợ các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn chưa quan tâm đúng mức .Dường như nhiều người còn mang nặng tâm lý : trong nước đang còn thiếu vốn thì không nên đầu tư ra nước ngoài,bởi đầu tư ra nước ngoài làm giảm sút nguồn vốn đầu tư trong nước .Nói cách khác họ chỉ coi trọng dòng vốn chảy vào ,mà ít quan tâm hỗ trợ dòng vốn chảy ra ,nhất là dòng đầu tư ra nước ngoài của doanh nhân , doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước .
Toàn cầu hóa nó vừa là một xu thế ,nó vừa là một cơ hội lớn cho nền kinh tế việt nam .Biết nhận thức hội nhập sâu rộng để tạo thuận lợi cho nền kinh tế phát triển , tăng vị thế ,đưa nước ta lên tầm cao mới
Rào cản chính sách giữa các nước với nhau trong vấn đề lưu thông hàng hóa và tiền tệ ( chính sách bảo hộ )
Trong một thế giới mà các nước mở của giao lưu giữa các nền kinh tế với nhau thì xu hướng cạnh tranh thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng quyết liệt.
Do mở cửa, tự do hoá thương mại các nước đang phát triển đang phải tiếp tục đối mặt với chế độ bảo hộ mậu dịch mà chủ yếu bằng các hàng rào phi thuế quan ngày càng quyết liệt của các nước phát triển. Mặc dù sự ràng buộc pháp luật của WTO đối với hàng rào thuế quan ngày càng được hoàn thiện nhưng các nước phát triển vẫn lợi dụng những sơ hở trong “luật chơi” để tiến hành bảo hộ mậu dịch.WTO với tư cách là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu cũng đã có những quy định rõ ràng về chính sách bảo hộ.Nếu công nghiệp nội địa của một thành viên WTO do sự tăng vọt nhập khẩu sản phẩm nào đó mà bị tổn hại hoặc đe dọa tổn hại ,thì nước đó có thể tạm thời hạn chế nhập khẩu sản phẩm đó .Sự tổn hại trong trường hợp này phải nghiêm trọng .Theo GATT ( điều 19 ) thì có thể áp dụng các biện pháp bảo hộ .Nhưng không thể áp dụn