Đề tài Dịch vụ – chất lượng dịch vụ một trong những yếu tố tạo thành công cho các doanh nghiệp hiện nay

Ở những nước phát triển, dịch vụ và khái niệm dịch vụ đã tồn tại và phát triển từ khá lâu ,đã được nhiều nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau . Ở Việt Nam thuật ngữ dịch vụ mới xuất hiện và mới được nghiên cứu với tư cách là một ngành kinh tế độc lập trong thời gian gần đây, mặc dù là trong thực tiễn nó đã tồn tại ( do nhiều nguyên nhân khác nhau, trước hết là do sự nhận thức, quan niệm không đầy đủ, đúng đắn về vị trí và vai trò ngày càng to lớn của ngành kinh tế quan trọng này). Ngày nay tổng sản phẩm quốc dân của một nước, cũng như doanh thu của một doanh nghiệp, không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ. Các khu vực Tỷ trọng dịch vụ trong GNP Các nước công nghiệp phát triển Các nước đang phát triển Các nước khác 70 –80 % 60 –70% 20 –50% Việt Nam thuộc nước thứ 3. Cơ cấu GDP Việt Nam thời kỳ 1990 – 1998 Cơ cấu ngành(%) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp 38,74 40,49 33,94 29,87 28,70 27,50 27,20 25,60 24,10 Công nghiệp 22,67 23,79 27,26 28,29 29,65 30,10 30,74 31,90 32,90 Dịch vụ 38,59 35,72 38,80 41,24 41,65 42,40 42,06 42,50 43,00 Nguồn: Thời báo kinh tế số 71 – 3/9/1997 Với sự phát triển mạnh mẽ, dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia: Dịch vụ giúp cho doanh nghiệp bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận. Dịch vụ lập lên hàng rào chắn, ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Dịch vụ giúp cho việc phát triển thị trường và giữ thị trường ổn định. Dịch vụ còn làm thay đổi căn bản cơ cấu nền kinh tế quốc dân( Tại các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50 –60% lực lượng lao động, 70 –80% thu nhập quốc dân, chi cho dịch vụ chiếm 60 –65% thu nhập của cá nhân ở các nước đang phát triển). Tổng kết trong 10 năm vừa qua ở nước ta, tỷ lệ % dịch vụ chiếm trong tổng số chi phí xã hội từ 10 – 25% sẽ tăng lên từ 35 –45% tương ứng số dư thừa của xã hội từ 70 –80%. Dịch vụ với vai trò quan trọng như vậy, cần được quan tâm đầu tư phát triển đúng hướng. Để làm được điều này, đòi hỏi phải có sự nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ của nhà nước, của các cấp các ngành và mỗi chúng ta đặc biệt là sinh viên khối kinh tế. Với những kiến thức đã học và dựa vào một số tài liệu tham khảo, Em chọn để tài nghiên cứu về “ Dịch vụ – chất lượng dịch vụ một trong những yếu tố tạo thành công cho các doanh nghiệp hiện nay”. Bài viết gồm ba chương: - Chương một: Dịch vụ và chất lượng dịch vụ. - Chương hai : Thực trạng chất lượng dịch vụ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. - Chương ba : Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ ở các doanh nghiệp hiện nay.

doc32 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dịch vụ – chất lượng dịch vụ một trong những yếu tố tạo thành công cho các doanh nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giới thiệu ở những nước phát triển, dịch vụ và khái niệm dịch vụ đã tồn tại và phát triển từ khá lâu ,đã được nhiều nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau . ở Việt Nam thuật ngữ dịch vụ mới xuất hiện và mới được nghiên cứu với tư cách là một ngành kinh tế độc lập trong thời gian gần đây, mặc dù là trong thực tiễn nó đã tồn tại ( do nhiều nguyên nhân khác nhau, trước hết là do sự nhận thức, quan niệm không đầy đủ, đúng đắn về vị trí và vai trò ngày càng to lớn của ngành kinh tế quan trọng này). Ngày nay tổng sản phẩm quốc dân của một nước, cũng như doanh thu của một doanh nghiệp, không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ. Các khu vực Tỷ trọng dịch vụ trong GNP Các nước công nghiệp phát triển Các nước đang phát triển Các nước khác 70 –80 % 60 –70% 20 –50% Việt Nam thuộc nước thứ 3. Cơ cấu GDP Việt Nam thời kỳ 1990 – 1998 Cơ cấu ngành(%) 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp 38,74 40,49 33,94 29,87 28,70 27,50 27,20 25,60 24,10 Công nghiệp 22,67 23,79 27,26 28,29 29,65 30,10 30,74 31,90 32,90 Dịch vụ 38,59 35,72 38,80 41,24 41,65 42,40 42,06 42,50 43,00 Nguồn: Thời báo kinh tế số 71 – 3/9/1997 Với sự phát triển mạnh mẽ, dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia: Dịch vụ giúp cho doanh nghiệp bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận. Dịch vụ lập lên hàng rào chắn, ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Dịch vụ giúp cho việc phát triển thị trường và giữ thị trường ổn định. Dịch vụ còn làm thay đổi căn bản cơ cấu nền kinh tế quốc dân( Tại các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50 –60% lực lượng lao động, 70 –80% thu nhập quốc dân, chi cho dịch vụ chiếm 60 –65% thu nhập của cá nhân ở các nước đang phát triển). Tổng kết trong 10 năm vừa qua ở nước ta, tỷ lệ % dịch vụ chiếm trong tổng số chi phí xã hội từ 10 – 25% sẽ tăng lên từ 35 –45% tương ứng số dư thừa của xã hội từ 70 –80%. Dịch vụ với vai trò quan trọng như vậy, cần được quan tâm đầu tư phát triển đúng hướng. Để làm được điều này, đòi hỏi phải có sự nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ của nhà nước, của các cấp các ngành và mỗi chúng ta đặc biệt là sinh viên khối kinh tế. Với những kiến thức đã học và dựa vào một số tài liệu tham khảo, Em chọn để tài nghiên cứu về “ Dịch vụ – chất lượng dịch vụ một trong những yếu tố tạo thành công cho các doanh nghiệp hiện nay”. Bài viết gồm ba chương: Chương một: Dịch vụ và chất lượng dịch vụ. Chương hai : Thực trạng chất lượng dịch vụ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Chương ba : Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ ở các doanh nghiệp hiện nay. Chương I . Dịch vụ và chất lượng dịch vụ. 1 . Dịch vụ. 1.1 Quan niệm về dịch vụ. + ISO 9004-2 : 1991(E) thì dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động nội bộ của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. + Một số tác giả khác cho rằng: dịch vụ là kết quả của các hoạt động không thể hiện bằng những sản phẩm vật chất, nhưng bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế như thương mại, y tế, du lịch, quản trị v.v… + Dịch vụ là một sản phẩm, một quá trình cung cấp một lợi ích hay một giá trị sử dụng nào đó cho một khách hàng trực tiếp và thường đi kèm với một sản phẩm vật chất nhất định. + Dịch vụ là một trong nhưng loại sản phẩm của xã hội, nhằm đáp ứng một mảng nhu cầu to lớn cua con người trong cuộc sống, nó bao gồm toàn bộ các hỗ trợ mà khách hàng mong đợi phù hợp với giá cả, uy tín, ngoài bản thân sản phẩm hay dịch vụ đó. + Dịch vụ là một nghề và nghề và nghề dịch vụ cũng có nhiều hình thức kinh doanh khác nhau, ở đây ta có thể quy vào 2 nhóm dịch vụ sau: * Dịch vụ trong công nghệ sản phẩm: ngoài tác dụng cơ bản và tính năng kỹ thuật của chính bản thân sản phẩm điều mà khách hàng còn quan tâm hơn là việc mua sắm này có làm bạn mất nhiều thời gian và công sức không? Dịch vụ các sản phẩm công nghiệp có hai mức cần đạt được đó là: Không phiền hà và thêm lợi. * Dịch vụ trong ngành dịch vụ: Khác với sản phẩm khác, sản phẩm dịch vụ là ít thấy hoặc khó thấy được cụ thể. Phần lớn các trường hợp khách hàng của một dịch vụ chỉ có thể biểu hiện được mức thoả mãn khi đã “ tiêu dùng” xong.Dịch vụ sản phẩm có thể phân thành hai phần mức độ mà sản phẩm “không có phiền hà” và “cái lợi” được thêm khi mua sắm các sản phẩm đó.Dịch vụ trong ngành dịch vụ gồm các loại hình sau: - Chào hàng: Là hình thức dịch vụ mà trong đó các doanh nghiệp thương mại tổ chức ra các điểm giới thiệu và bán trực tiếp hàng hoá cho khách hàng để thăm dò thị trường. - Dịch vụ quảng cáo: Quảng cáo là tuyên truyền giới thiệu về hàng hoá bằng cách sử dụng và phương tiện khác nhau trong những khoảng thời gian nhất định.Trong quản lý kinh doanh hiện nay, quảng cáo là công cụ quan trọng của sản xuất kinh doanh, là phương tiện để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá.Hiện nay có nhiều xí nghiệp, nhiều nước chi phí cho hoạt động chiêu, quảng cáo chiếm 10-15% chi phí trong giá bán hàng.Trong thương mại phương tiện quảng cáo rất đa dạng và phong phú, có những phương tiện quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại và phương tiện quảng cáo kinh doanh bên ngoài mạng lưới kinh doanh thương mại.Có phương tiện quảng cáo chuyên dùng và phương tiện quảng cáo thông dụng. - Dịch vụ là một loại sản phẩm đáp ứng chủ yếu cho nhu cầu về mặt tinh thần của con người do đó rất quan trọng.Yêu cầu và mong muốn của khách hàng đối với chất lượng dịch vụ tiến hoá không ngừng, đòi hỏi ngày càng cao.Tuy nhiên, phát hiện này chưa cho thấy một bức tranh đầy đủ.Nhận thức về chất lượng của mỗi đối tượng khách có những điểm khác biệt. Nhà cung cấp thường có những cách nhìn về dịch vụ không giống như khách hàng và chất lượng của dịch vụ cũng được nhận thức thoe các cách khác nhau.Dịch vụ đó là mới mẻ hay dịch vụ đó là được tổ chức tốt. Người tiêu dùng nào chỉ vừa mới biết đến một dịch vụ thường sẽ ít phê phán hơn là khách hàng đã từng trải.Khách hàng sẽ luôn: Hướng tới dịch vụ tốt hơn và tiến đến một chất lượng tốt hơn. 1.2 Đặc điểm của dịch vụ. + Dịch mang tính vô hình nhưng luôn đi kèm với nó là tính hữu hình. Đặc điểm này dễ dàng nhận ra được trong dịch vụ tư vấn, khi cung cấp sản phẩm cho khách hàng tức là quá trình tư vấn thì nó sẽ là vô hình, trong quá trình tư vấn có những trang thiết bị để trợ giúp như : văn phòng, bàn ghế, tài liệu, sách báo, thì đó là tính hữu hình. + Dịch vụ bao gồm ba yếu tố con người, dịch vụ và sản phẩm đi kèm. Dịch vụ là kết quả mang lại của sự tương tác giữa người với người, vì vậy yếu tố con người là yếu tố quan trọng trong dịch vụ, ngoài ra dịch vụ còn bao gồm yếu tố dịch vụ và các sản phẩm đi kèm. +Dịch vụ là cả người bán và người mua không sở hữu được và không tích trữ được dịch vụ. Quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ chỉ diễn ra khi có cả người bán và người mua, do dịch vụ mang tính vô hình nên cả người bán và người mua không sở hữu và tích trữ được dịch vụ. +Dịch vụ thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa khách hàng và người làm dịch vụ điều đó thể hiện bất kỳ một dịch vụ nào cũng phải có sự tham gia của khách hàng. +Dịch vụ khi sản xuất và tiêu dùng diễn ra một cách đồng thời quá trình sản xuất và tiêu dùng, không bao giờ tách rời nhau. 1.3 Phân loại dịch vụ. + Dịch vụ hiện là dịch vụ bộc lộ được ra bên ngoài mà khách hàng cảm nhận được một cách trực tiếp, ví dụ: dịch vụ bưu chính, ngân hàng, + Dịch vụ ẩn đây là mang tính chất tâm lý mà khách hàng chỉ cảm nhận được một cách từ từ và mơ hồ, ví dụ: dịch vụ bảo hiểm,.. 1.4 Các loại hình dịch vụ hiện nay. Theo các chuyên gia Liên hợp quốc, thì tạm thời có thể có bốn loại hình dịch vụ sau: * Dịch vụ liên quan đến: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,... * Dịch vụ liên quan đến: tham quan, du lịch, vận chuyển,.. * Dịch vụ liên quan đến: tư liệu thông tin( thông tin viễn thông, ngân hàng dữ liệu, bí quyết,...). * Dịch vụ liên quan đến: huấn luyện và đào tạo. 2. Chất lượng dịch vụ. 2.1 Định nghĩa chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là thoả mãn của khách hàng khi họ cảm thấy đồng tiền bỏ ra xứng đáng với những gì người cung cấp phục vụ cho họ. 2.2 Các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ. + Tính hữu hình thể hiện ở cơ sở vật chất, trang thiết bị vận dụng, vẻ bề ngoài, cách thức trang trí, vị trí cơ sở. Các yếu tố này cho khách hàng cảm nhận chất lượng dịch vụ hoặc thông qua đó người ta thấy được mức độ dịch vụ. + Độ tin cậy được thể hiện khả năng thực hiện dịch vụ như đã hứa một cách chính xác đầy đủ và đúng thời hạn kèm theo một phong cách dịch vụ không có sai sót. + Tính trách nhiệm là khả năng phản ánh thái độ sẵn sàng phục vụ giúp đỡ khách hàng tốt nhất, an toàn nhất. Bên cạnh đó nó đòi hỏi mức khắc phục khi xảy ra rủi ro một cách nhanh nhất và an toàn nhất. + Sự đảm bảo nó thể hiện tác phong lịch sự, sự tôn trọng và tin tưởng khách hàng của nhân viên phục vụ, do đó sự đảm bảo này phải được quan tâm đầy đủ, nghĩa là phải luôn luôn quan tâm làm điều tốt cho khách hàng. + Sự đồng cảm với khách hàng thể hiện khả năng am hiểu khách hàng, chia sẻ với khách hàng niềm vui và nỗi buồn và làm yên lòng khách hàng. 2.3 Đặc trưng cơ bản của chất lượng dịch vụ. * Chất lượng dịch vụ là chất lượng của con người do đó chúng ta cần tập trung đào tạo, huấn luyện trình độ chuyên môn nhân viên và trình độ giao tiếp của nhân viên. Chất lượng dịch vụ được thể hiện qua các yếu tố trình độ học vấn, giao tiếp, giọng nói, khả năng lý luận và khả năng vận dụng chúng vào thực tiễn. * Chất lượng dịch vụ mang tính nhận thức là chủ yếu, khách hàng luôn luôn đặt ra những yêu cầu về chất lượng dịch vụ thông qua những thông tin họ nhận được hoặc những thông tin mà họ có trước, khi khách hàng sử dụng một dịch vụ nào đó. * Chất lượng dịch vụ thay đổi theo người bán và người mua vào các thời điểm khác nhau. Điều đó có nghĩa là rất khó xác định mức chất lượng đồng đều cho tất cả mọi người, cùng một dịch vụ nhưng đối với mỗi khách hàng khác nhau thì mức độ chất lượng khác nhau. * Cùng dịch vụ nhưng có thể cung cấp những chất lượng khác nhau cho từng nhóm khách hàng ở từng thời điểm khác nhau, do đó khó có thể đáp ứng thoả mãn đầy đủ nhu cầu mọi nhóm khách hàng. 2.4 Nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ. * Yếu tố thị trường: Đặc điểm của nhu cầu là luôn luôn vận động theo xu hướng đi lên, vì vậy mà chất lượng sản phẩm dịch, dịch vụ cũng phụ thuộc vào đó. Thị trường sẽ quyết định mức chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp cung cấp, bên cạnh đó thị trường cũng giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn và nắm vững hơn các nhu cầu, đòi hỏi của khách hàng từ đó đáp ứng ngày càng hoàn chỉnh hơn. * Yếu tố về thị trường khoa học công nghệ: Chất lượng dịch vụ được tạo nên từ 3 yếu tố. Công nghệ, trình độ công nghệ. Phần mềm, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ công nhân viên. Con người. Với sự phát triển của khoa học ngày càng lớn mạnh, sẽ tạo ra lực đẩy giúp doanh nghiệp có kinh nghiệm cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch của mình. Đó là việc tạo ra những sản phẩm mới, những nguyên vật liệu mới có khả năng thay thế làm giảm giá thành của các sản phẩm hoặc việc tạo ra những sản phẩm mới có tính năng sử dụng sản phẩm mới hay hơn, hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng. * Cơ chế chính sách quản lý: Cơ chế chính sách hay môi trường pháp lý cho hoạt động chất lượng có tác động rất lớn, nó có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến công việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mỗi doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động đầu tư, đổi mới trang thiết bị, phong cách quản lý nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tốt hơn đáp ứng nhu cầu không những trong hiện tại mà cả trong tương lai. Cơ chế và chính sách quản lý cũng đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bắt buộc doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình và thông qua đó tạo ra cơ chế bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp cung như người tiêu dùng. * Yếu tố con người: sẽ quyết định đến chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp. Đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mà mỗi doanh nghiệp cần phải có, chỉ có những con người có chất lượng mới tạo ra sản phẩm có chất lượng. * Yếu tố nguyên vật liệu: là một trong những yếu tố tham gia vào cấu thành chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy mỗi doanh nghiệp cần tìm nguồn nguyên liệu có chất lượng ổn định đảm bảo được các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp đề ra. * Yếu tố trình độ tổ chức quản lý: Chất lượng phụ thuộc vào quá trình quản lý và trách nhiệm của người quản lý.Nếu một doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt, thì các sản phẩm họ sản xuất ra có chất lượng tốt và ngược lại. Ví dụ: Khi có trình độ quản lý tốt, người ta sẽ bố trí đúng người đúng việc tạo ra hiệu quả tốt trong công việc. 3. Chất lượng dịch vụ một trong những yếu tố tạo thành công cho các doanh nghiệp hiện nay. Trong những năm gần đây chất lượng đã trở thành yếu tố quan trọng đối với các doanh nghiệp trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập và đứng vững trên thị trường. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp ở nhiều nước trên thế giới đã chứng tỏ rằng: muốn tồn tại được, muốn có khả năng cạnh tranh cao cần coi trọng chất lượng hiệu quả, quan tâm đến thị trường, đến khách hàng trong đó đặc biệt là chất lượng, yếu tố giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh. Cùng với chất lượng nói chung, thì chất lượng dịch vụ nói riêng ngày càng trở nên quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, mà còn cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong các lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, giao thông vận tải, du lịch, khách sạn,… thì chất lượng dịch vụ là mức độ thoả mãn nhu cầu khách hàng ứng với mỗi dịch vụ được đưa ra. Khách hàng sẽ hài lòng khi nhu cầu của họ được thoả mãn một cách tốt nhất. Trong đời sống hàng ngày có nhiều nhu cầu phát sinh thuộc lĩnh vực hoạt động của dịch vụ. Việc đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu của khách hàng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng về phía mình, làm tăng hiệu quả trong kinh doanh. Cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất vật chất, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cung cấp sản phẩm là quá trình đưa ra dịch vụ đáp ứng yêu cầu khách hàng; vì vậy sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cũng có những nét chung( đặc điểm, vai trò) giống sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất vật chất về mặt chất lượng. Trong phần này chỉ đề cập tới vai trò của chất lượng dịch vụ: + Chất lượng dịch vụ làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ và thể hiện sức mạnh canh tranh của các doanh nghiệp đó: Với sự phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội thì nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng lên, và các nhu cầu đòi hỏi được đáp ứng ở mức ngày càng cao hơn. Vì vậy, chỉ có những dịch vụ đạt chất lượng tốt mới đáp ứng được các nhu cầu này, và làm thoả mãn khách hàng, tạo cho khách hàng cảm thấy an toàn, tin tưởng khi sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp, cũng như làm cho khách hàng luôn vui vẻ và mong muốn quay trở lại doanh nghiệp khi có nhu cầu. Điều này cho thấy tầm quan trọng của chất lượng dịch vụ, nó có ảnh hưởng lớn tới sự thành bại của doanh nghiệp. Ngày nay, mỗi khi xuất hiện một nhu cầu mới thì có nhiều dịch vụ có thể đáp ứng; khách hàng sẽ lựa chọn dịch vụ nào khi mà họ cảm thấy chất lượng dịch vụ đó có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ muốn dịch vụ của mình được mọi người ưa thích sử dụng thì trước hết dịch vụ đó phải có chất lượng, dịch vụ phải có những ưu điểm mà dịch vụ khác không có, và cái quan trọng là dịch vụ của doanh nghiệp phải phù hợp vứi nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng dịch vụ thì mới tăng đươcj khả năng cạnh tranh và thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp. + Chất lượng nâng cao vị thế của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thương trường, nhờ đó uy tín của các doanh nghiệp được bảo đảm; đó là cơ sở quan trọng để các doanh nghiệp có thể phát triển bền vững và lâu dài: Khách hàng khi có nhu cầu được thoả mãn, họ sẽ tìm đến những doanh nghiệp có tên tuổi, vị thế và uy tín trên thị trường; vì những doanh nghiệp này có khả năng thoả mãn các nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. Nhưng để có được tên tuổi, vị thế, và uy tín thì những dịch vụ mà doanh nghiệp đưa ra phải phù hợp với khách hàng và được khách hàng ưa thích, điều này chỉ có thể có được khi mà dịch vụ của doanh nghiệp luôn đạt chất lượng tốt nhất. + Nâng cao chất lượng dịch vụ có thể giúp người tiêu dùng tiết kiệm thời gian trong điều kiện vận hành, sử dụng dịch vụ; đây là giải pháp tạo ra sự phù hợp lợi ích giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy quá trình khách hàng tìm tới doanh nghiệp: Người tiêu dùng sẽ luôn tìm đến những dịch vụ nào mà ở đó lợi ích của họ đạt được lớn nhất, điều này được quyết định bởi chất lượng dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy, mà chất lượng dịch vụ có ảnh hưởng tới số lượng khách hàng tới doanh nghiệp, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. + Chất lượng dịch vụ là cơ sở quan trọng để tăng khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài và khẳng định vị thế của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế, do đó làm tăng khả năng trúng thầu của các doanh nghiệp Việt Nam: Trong quá trình hội nhập hiện nay, khi giá không còn là nhân tố chủ chốt được sử dụng để phát huy lợi thế cạnh tranh, thì chất lượng dịch vụ chính là cơ sở để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường trong và ngoài nước. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ muốn tạo được vị thế và gây tiếng vang cho mình trên thị trường quốc tế thì trước hết sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra phải được tất cả mọi người ưa chuộng; và sản phẩm phải chiếm lĩnh được thị trường, do đó đòi hỏi mỗi một sản phẩm khi đưa ra thị trường đều phải đạt chất lượng. Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tác động nhiều tới lĩnh vực sản xuất, nhiều sản phẩm được sản xuất ra có tính năng, công dụng gần như là giống nhau, điều này làm cho khách hàng thực sự khó khăn khi quyết định lựa chọn một sản phẩm nào đó. Vì vậy, để nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, các doanh nghiệp sản xuất vật chất không ngừng quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại sản phẩm của mình. Song song với các chương trình trên, một số doanh nghiệp còn tổ chức chương trình dịch vụ trong và sau bán. Chương trình dịch vụ này nhằm tạo tâm lý thoải mái trong khi mua và sự đáp ứng kịp thời các yêu cầu phát sinh sau khi mua của khách hàng. Thực tiễn doanh nghiệp nào có chương trình dịch vụ trong và sau bán tốt thì doanh nghiệp đó bán hàng rất tốt, nguyên nhân do doanh nghiệp có được sự quan tâm, tin tưởng của khách hàng đối với doanh nghiệp. Vậy có thể nói chất lượng dịch vụ trong và sau bán có ý nghĩa quan trọng, nó tạo ra một ưu thế so với các đối thủ trong quá trình cạnh tranh. Tóm lại, chất lượng dịch vụ là nhân tố tạo thành công không chỉ đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ mà nó còn là nhân tố ảnh hưởng tới sự thành công của các doanh nghiệp sản xuất hiện nay. Chương 2. Thực trạng chất lượng dịch vụ trong các doanh nghiệp việt nam hiện nay. 1. Nhận thức chất lượng dịch vụ trong các doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam một nước đang phát triển, nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa vào nông nghiệp, ngành công nghiệp còn non trẻ đang từng bước phát triển. Ngay sau khi giành được độc lập, cả nước bắt tay vào khôi phục kinh tế, do hậu quả của cuộc chiến tranh để lại, cộng thêm nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn nên gây rất nhiều khó khăn trong công cuộc khôi phục và phát triển nền kinh tế. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước đã áp dụng chính sách tự lực, tự cường để xây dựng một số ngành công nghiệp nhằm tạo đà cho việc công nghiệp hoá nền kinh tế sau này. Chính phủ đã áp dụng một số biện pháp bảo hộ như: dùng các chính sách hạn chế nhập khẩu, chính sách thuế,…để bảo vệ cho nền công nghiệp mới này phát triển.Dư
Tài liệu liên quan