Theo đề án phát triển nuôi cá rô phi 2003 – 2010 của bộ Thủy sản, sản lượng cá rô phi sẽ tăng từ 30.000 tấn năm 2003 lên 100.000 tấn năm 2005 và 200.000 tấn năm 2010. Giá trị xuất khẩu cá rô phi trong 6 năm tới dự kiến sẽ lên tới 160 triệu USD, tương đương 1.500 tỷ đồng.
43 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều chế kháng huyết thanh thỏ kháng liên cầu khuẩn gây bệnh trên cá rô phi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DOWNLOAD» AGRIVIET.COM
I. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề
Theo đề án phát triển nuôi cá rô phi 2003 – 2010 của bộ Thủy sản, sản lượng
cá rô phi sẽ tăng từ 30.000 tấn năm 2003 lên 100.000 tấn năm 2005 và 200.000 tấn
năm 2010. Giá trị xuất khẩu cá rô phi trong 6 năm tới dự kiến sẽ lên tới 160 triệu
USD, tương đương 1.500 tỷ đồng.
Với mục tiêu đưa diện tích nuôi cá rô phi sẽ tăng lên đến 10.000 ha và 1 triệu
m3 lồng vào năm 2010, tổng mức đầu tư dành cho đề án phát triển nuôi cá rô phi ước
tính cần 12.840 tỷ đồng. Và theo nhận định, trước hết khâu đầu tư giống vẫn là quan
trọng nhất. Ước tính 250 triệu con giống cỡ 5 – 10 gam vào năm 2005 và 500 triệu
con vào năm 2010.
Để đạt được những mục tiêu trên cùng với sự mở rộng quy mô, áp dụng nhiều
mô hình nuôi tiên tiến đó là việc tìm ra phương pháp phòng và trị bệnh hiệu quả là
vấn đề cấp thiết hiện nay. Bệnh trên cá rô phi gây tổn thất không nhỏ đến người
nuôi, đặc biệt là bệnh do vi khuẩn Streptococcus gây ra. Vi khuẩn này gây bệnh với
tỷ lệ chết rất cao và làm kìm hãm sự phát triển của nghề nuôi thủy sản nói chung và
nghề nuôi cá rô phi nói riêng. Cùng với việc sử dụng thuốc điều trị không đạt hiệu
quả cao, gây tốn kém và nghiên cứu dịch bệnh đòi hỏi phương pháp phức tạp, trang
thiết bị hiện đại, việc tìm ra một phương pháp chẩn đoán tác nhân gây bệnh nhanh,
chính xác là nhu cầu cần thiết hiện nay.
Trước yêu cầu thực tế đó, được sự phân công của Khoa Thủy Sản trường Đại
Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh và được sự hướng dẫn tận tình của thầy
Nguyễn Hữu Thịnh – Chúng tôi đã tiến hành đề tài: “Điều chế kháng huyết thanh
thỏ kháng liên cầu khuẩn gây bệnh trên cá rô phi”.
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
Điều chế kháng huyết thanh thỏ kháng vi khuẩn Streptococcus sp. và chẩn
đoán nhanh bệnh này gây trên cá rô phi.
2
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Phân Loại Cá Rô Phi
Lớp : Ostichthyes
Lớp phụ : Actenopterigii
Trên bộ : Percomorpha
Bộ : Percoidae
Họ : Cichlidae
Giống : Tilapia, Saratherodon, Oreochoromis
2.2 Nguồn Gốc và Phân Bố
Căn cứ vào đặc trưng về tập tính sinh sản và hình thái các loài, người ta phân
loại cá rô phi thành 3 giống:
Giống Tilapia gồm những loài ấp trứng trên vật bám ( giá thể).
Giống Sarotherodon gồm những loài ngậm trứng và cá con trong miệng.
Giống Oreochromis cá tự đào tổ đẻ, chỉ có cá cái ấp trứng trong miệng.
Hiện chúng ta đã biết có tới hơn 80 loài thuộc 4 giống và 10 giống phụ. Cá rô
phi nhập vào nước ta trước đây thuộc giống Oreochromis là các loài O. mosambica
(nhập vào Việt Nam năm 1951) và O. nilotica (nhập vào miền Nam Việt Nam 1973),
và các loài cá rô phi đỏ có màu sáng hồng, nhập vào ta từ thập niên 90. Cá O.
nilotica (rô phi Đài Loan, rô phi vằn) có thể vóc lớn hơn cá rô phi O. mosambica (rô
phi thường hay rô phi cỏ ). Cá rô phi vằn có thân màu hồng, vẩy sáng, có 9 - 12 sọc
đen đậm song song từ lưng xuống bụng, vi đuôi có màu sọc đen, viền vi đuôi và vi
lưng có màu hồng nhạt. Cá rô phi thường thân có màu đen ở lưng, bụng có màu sáng.
Tốc độ tăng trưởng của cá tùy thuộc điều kiện nuôi và thức ăn. Cá rô phi vằn lớn
nhanh hơn cá rô phi thường. Sau thời gian nuôi 4 – 5 tháng, cá rô phi vằn có thể đạt
kích thước thương phẩm 200 – 400 gam. Cá đực thường lớn nhanh hơn cá cái, nhất là
sau khi thành thục sinh dục. Vì vậy nên dùng cá đực để nuôi tăng sản. Năm 1992,
một công ty Đài Loan đã nhập cá rô phi đỏ vào Việt Nam để nuôi thử ở Bình Dương.
Sau đó cá được đưa tới các nhà hàng ở thành phố Hồ Chí Minh với tên gọi khá hấp
dẫn là cá điêu hồng.
3
2.3 Đặc Điểm Sinh Học
2.3.1 Đặc điểm dinh dưỡng
Giai đoạn đầu sau khi hết noãn hoàn cá ăn các thức ăn có kích thước nhỏ như
phù du động, thực vật, … Sau một tháng cá có thể ăn được các thức ăn có kích thước
lớn hơn, ăn được thức ăn chế biến, rau xanh bằm nhỏ, bèo tấm. Các loại cá lớn và
trưởng thành ăn tạp nhiều loại thức ăn như rau, bèo, mùn bả hữu cơ, tảo lắng ở đáy,
ấu trùng côn trùng, thức ăn nhân tạo, chế biến, thức ăn công nghiệp, …
Phổ thức ăn của các loài cá rô phi khác nhau thay đổi rộng và có thể chia làm
3 nhóm chính: các loài ăn tạp và mùn bả hữu cơ như cá rô phi đen (Oreochoromis
mossambicus) và cá rô phi vằn (O. niloticus), các loài ăn tảo như O. macrochir,
Saratherodon esculentus và các loài ăn thực vật thượng đẳng như Tilapia zillii, T.
rendalli. Ngoài ra cá rô phi còn có khả năng thích ứng với các loại thức ăn tổng hợp
do con người cung cấp.
2.3.2 Đặc điểm sinh trưởng
Cá rô phi có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Loài Oreochoromis nilotica (dòng
GIFT) có thể đạt trọng lượng trung bình 600 – 700 gam sau vụ nuôi 5 – 6 tháng, cao
nhất có thể đạt tới 1,2 – 1,4 kg. Cá đực thường lớn nhanh hơn cá cái.
Loài cá rô phi vằn thích hợp nhất cho nuôi thịt bởi có cường độ tăng trưởng
nhanh và khả năng sử dụng tốt thức ăn tự nhiên và bổ sung. Cá rô phi vằn đòi hỏi
hàm lượng đạm trong khẩu phần thức ăn từ 20 – 50% tùy theo kích thước.
2.3.3 Đặc điểm sinh sản
Cá rô phi đỏ thành thục sinh dục chỉ sau 4 – 5 tháng tuổi. Cá cái mỗi lần đẻ
khoảng 1000 – 2000 trứng, trong buồng trứng có 4 – 5 lứa trứng, cá đẻ từng lứa một.
Cá có thể đẻ nhiều lần trong năm (8 – 11 lần). Cá rô phi vằn và rô phi đỏ thời gian
thành thục chậm hơn, tới 6 – 8 tháng. Khi thành thục cá bắt cặp và tự đào tổ ở đáy ao
đẻ trứng, cá đực bảo vệ và giữ trứng đến khi cá bột nở ra. Cá cái còn giữ cá con cho
đến khi cá bột tiêu hết noãn hoàn và tự đi kiếm ăn được thức ăn bên ngoài. Vì cá có
tập tính đẻ sớm và đẻ nhiều nên khó kiểm soát được mật độ trong ao.
Cá rô phi nói chung có tuổi thành thục sớm, dể thành thục và dể sinh sản. Ta
có thể phân biệt cá đực và cá cái khi cá lớn cỡ 6 – 7 cm bằng cách quan sát lỗ huyệt
của chúng và theo đó cũng dễ dàng tách riêng cá đực, cá cái trong một đàn cá rô phi.
Cá đực chỉ có 2 lỗ gồm lỗ hậu môn nằm ở phía trước và lỗ niệu sinh dục nằm
ở phía sau.
4
Cá cái có 3 lỗ, phía trước là lỗ hậu môn, tiếp đến là lỗ niệu nằm ở giữa và lỗ
sinh dục nằm ở phía sau.
Cá rô phi đỏ có thể đẻ nhiều lần trong năm, từ 10 – 12 lần và hầu như đẻ
quanh năm. Ở Đài Loan nuôi trong điều kiện chăm sóc tốt cá có thể đẻ trên 20 lần
trong một năm. Cá trên hoặc dưới một năm tuổi đẻ nhiều lứa hơn cá từ 2 năm tuổi trở
lên.
Khi bắt đầu sinh sản, cá rô phi đực và cái cùng hợp làm tổ bằng cách dùng
đuôi quậy bùn và đào hố dưới đáy ao, hố có hình tròn, dốc thoai thoải, trơn nhẵn,
không còn bùn lắng động, đường kính tổ từ 20 – 30 cm, độ sâu thích hợp 0,3 – 0,5 cm.
Cá cái đẻ trứng vào hố và cá đực tưới tinh dịch để thụ tinh. Sau khi trứng thụ
tinh, cá cái sẽ hút và ngậm tất cả trứng để ấp cho tới khi cá con nở. Ở nhiệt độ 300C
thời gian ấp trứng từ 4 – 6 ngày. Sau khi nở khoảng 3 – 4 ngày cá con hết noãn hoàn
và bơi theo cá mẹ. Khi gặp nguy hiểm cá mẹ há miệng thu cả đàn con vào trong
miệng. Khi thấy an toàn, cá mẹ há miệng cho đàn con chui ra. Sau 4 – 5 ngày cá con
tách khỏi mẹ và tự đi kiếm ăn, cá mẹ lại chuẩn bị cho chu kỳ sinh sản mới.
Thời gian giữa 2 lứa đẻ tùy thuộc vào thức ăn, tuổi cá, nhiệt độ, … Trung bình
cá đẻ từ 1000 – 2000 trứng, cá cỡ lớn có thể đẻ số lượng trứng nhiều hơn. Vì vậy
chúng ta nên chọn cá bố mẹ có thể trọng lớn để nâng cao năng suất sinh sản, cho số
lượng cá con nhiều và khỏe mạnh.
2.4 Yêu Cầu Về Các Yếu Tố Môi Trường Nước
2.4.1 Nhiệt độ
Theo Ballarin và Haller, 1982; giới hạn nhiệt độ nước cho sinh trưởng bình
thường của các loài cá rô phi 20 – 350C. Nhiệt độ tối hảo là 29 – 310C. Ngưỡng nhiệt
độ thấp nhất gây chết là 10 – 110C. Phần lớn cá rô phi ngừng ăn hay sinh trưởng
chậm ở nhiệt độ nước dưới 16 – 170C và không sinh sản hoặc ngưng phát triển ở nhiệt
độ dưới 200C. Giới hạn nhiệt độ tối hảo cho sinh sản từ 26 – 290C cho hầu hết các
loài cá rô phi.
2.4.2 pH
Cá rô phi có khả năng chịu đựng giới hạn pH rộng từ 4 – 11. Tuy nhiên khi pH
< 5 tác động xấu đến sự kết hợp của máu với oxygen, cá bỏ ăn và ảnh hưởng đến sự
phát triển.
pH thích hợp cho sự phát triển của cá rô phi từ 6,0 – 8,5 (Wangead và ctv.,
1988). Cá rô phi chết khi pH tăng cao đến 12.
5
2.4.3 Hàm lượng oxy hoà tan (DO)
Cá rô phi dòng GIFT có khả năng chịu đựng được ở vùng nước có hàm lượng
oxy thấp 1 mg/l, ngưỡng gây chết cá từ 0,1 – 0,3 mg/l, phát triển tốt trong khoảng 2 –
5 mg/l.
2.4.4 Ammonia (NH3)
Ammonia rất độc cho cá nhưng cá rô phi có thể chịu đựng ammonia tốt hơn
các loài cá khác, dưới 20mg/l (Ballarin và Haller, 1982).
2.4.5 Độ mặn
Tuy là loài thủy sản nước ngọt nhưng chúng có thể sống và phát triển cả trong
môi trường nước lợ, mặn có nồng độ muối tới 32 0/00 (thích hợp nhất là 0 – 200/00).
2.5 Tình Hình Nghiên Cứu Dịch Bệnh ở Cá Rô Phi
Hiện nay, trên thế giới những công trình nghiên cứu về bệnh cá rô phi do vi
khuẩn như:
Miyazaki và ctv. (1984) nghiên cứu một số mô học cá bị nhiễm Pseudomonas
flueorescens và Streptococcus sp. Kaige và ctv. (1996) nghiên cứu mô học của cá
bệnh do Edwardsiella sp. Lio – Po và Sanvictores (1987) nghiên cứu nguyên nhân
gây chết cá bột. Chang và Plumb (1996) nghiên cứu mô học cá rô phi vằn nhiễm
Staphylococcus sp. và ảnh hưởng của độ mặn lên quá trình nhiễm Staphylococcus của
cá rô phi vằn. Bunch và Bejerano (1997) nghiên cứu ảnh hưởng của những yếu tố
môi trường lên sự nhạy cảm của cá rô phi lai đối với bệnh do Streptococcus sp.
Perera và ctv. (1998) nghiên cứu mô học của cá rô phi lai bị nhiễm Streptococcus
iniae. Klesius và ctv. (1999) nghiên cứu hiệu lực của một loại vaccine được bào chế
từ tế bào Streptococcus iniae đã bị diệt bằng formol đối với cá rô phi. Nghiên cứu
của Evan và ctv. (2000) cho thấy Streptococcus iniae có thể gây nhiễm cá rô phi qua
đường mũi. Shoemake và ctv. (2000) nghiên cứu mật độ cá thả và liều lượng
Streptococcus iniae có ảnh hưởng đến tỷ lệ chết của cá khi chúng tiếp xúc những vi
khuẩn này ( Trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004).
Hiện nay ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về bệnh cá rô phi chưa nhiều,
chỉ có vài công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào kí sinh trùng và hầu như chưa
có hoặc có rất ít công trình có tầm cỡ nghiên cứu về tác nhân virus hay vi khuẩn gây
bệnh trên cá rô phi. Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam như: nghiên cứu về kí
sinh trùng trên một số dòng cá rô phi vằn ở Bắc Ninh và Quảng Ninh (Bùi Quang Tề
và ctv., 1999). Kí sinh trùng ở những giai đoạn khác nhau trên ba dòng cá rô phi nuôi
(O. niloticus) như dòng Thái, dòng Việt và dòng GIFT tại miền Bắc Việt Nam (Bùi
Quang Tề và Vũ Thị Lụa, 1999).
6
2.6 Một Số Bệnh Thường Gặp Trên Cá Rô Phi
2.6.1 Bệnh liên cầu khuẩn (do vi khuẩn Streptococcus)
Bệnh thường xảy ra với tỷ lệ cá chết rất cao, đặc biệt là vào các tháng cuối
mùa hè và đầu mùa thu. Đây là khoảng thời gian nhiệt độ nước cao nhất trong năm.
Tại các thời điểm khác trong năm cá chết rải rác, ngoại trừ những tháng mùa đông
lúc nhiệt độ nước xuống thấp nhất ở các nước ôn đới không thấy bệnh xuất hiện. Về
độ tuổi cá thường nhiễm bệnh, hầu hết các báo cáo đều ghi nhận bệnh thường xảy ra
trong giai đoạn nuôi thương phẩm.
Đường truyền bệnh: cá sống trong môi trường nước có tác nhân vi khuẩn này
hoặc sống chung với cá bệnh. Bệnh càng dễ dàng xảy ra thông qua vết thương ở da
hay các yếu tố môi trường nuôi không tốt đối với cá (Woo và ctv., 2002; trích bởi
Nguyễn Tri Cơ, 2004).
Dấu hiệu bệnh lý: cá bệnh thường có triệu chứng chung khá điển hình trên
nhiều loài. Cá bơi lờ đờ trên mặt nước, mất khả năng định hướng, bụng căng phồng,
vùng da quanh miệng và hậu môn xung huyết, mắt lồi một hoặc hai bên, một số cá bị
đục giác mạc, xuất huyết ở vây lưng và vây ngực, gan, lách và thận vừa tái nhạt vừa
sưng phồng. (Perera và ctv. 1998; trích bởi Nguyễn Hữu Thịnh, 2004) nghiên cứu hệ
thống bệnh tích vi thể của cá rô phi lai (O. niloticus x O. aureus) nhiễm Streptococcus
iniae. Kết quả cho thấy sự xâm nhập của vi khuẩn vào tế bào ở mắt, màng não gây
viêm hạt màng não. Các ổ viêm với rất nhiều vi khuẩn trong nhu mô thận là bệnh
tích thường quan sát được. Vi khuẩn phát triển quanh mao tĩnh mạch và tạo bệnh tích
viêm hạt ở nhu mô gan. Nhu mô lách nhiễm khuẩn rất nặng. Một số trường hợp có
thể quan sát được viêm bao tim và cơ tim.
Phòng trị bệnh: các biện pháp phòng bệnh như giảm mật độ nuôi, tránh cho ăn
dư thừa, thường xuyên vệ sinh hệ thống nuôi, tránh đến mức tối đa việc chuyển đàn
hay phân cỡ cá trong thời gian dịch bệnh thường xảy ra. Trị bệnh bằng cách sử dụng
các loại kháng sinh có phổ kháng khuẩn rộng hay các loại kháng sinh có tác dụng
diệt khuẩn gram dương trộn vào thức ăn cho cá ăn. Liều lượng như sau:
- Enrofloxacin: 5 mg/kg cá, cho ăn liên tục trong 10 ngày (Stoffregen và ctv.,
1996).
- 100 mg Erythromycine + 70 mg Doxycycline trên kg cá, cho ăn liên tục trong
6 ngày (Tung và ctv., 1985).
Theo Kitao và Aoki (1979) thì có thể sử dụng thêm một số loại kháng sinh
khác như Kitasamycine, Lincomycine, Alkyl – trimethyl – ammonium – calcium –
oxytetracycline, Oleandomycine trong điều trị bệnh do liên cầu khuẩn trên cá.
7
2.6.2 Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.
Tác nhân gây bệnh: nhóm vi khuẩn gây bệnh chủ yếu thuộc giống
Aeromonas: A. hydrophila, A. caviae, A. sobria. Vi khuẩn hiện diện trong môi trường
nước, đặc biệt khi nước có nhiều chất hữu cơ. Các loài vi khuẩn này có thể không
gây bệnh khi cư trú trong ruột cá.
Đối tượng nhiễm bệnh: các loài cá nuôi nước ngọt: cá tra, cá điêu hồng, cá
basa, cá trê, … Cá con dễ mẫn cảm hơn cá trưởng thành, có thể gây chết đến 80%.
Dấu hiệu bệnh lý: cá bệnh bị sẫm màu từng vùng ở bụng. Xuất hiện từng
mảng đỏ trên cơ thể. Hoại tử đuôi, vây, xuất huyết các vết thương trên lưng, các khối
u trên bề mặt cơ thể, vẩy dễ rơi rụng. Mắt lồi, mờ đục và phù ra. Xoang bụng chứa
nhiều dịch, nội tạng hoại tử.
Phòng trị:
Tránh tạo ra các tác nhân cơ hội như nhiễm ký sinh trùng ( nhóm nguyên sinh
động vật), tránh làm xây xác cá, vệ sinh không đúng quy định, nước giàu chất hữu cơ
(môi trường nuôi nhiễm bẩn), mật độ nuôi quá dày, hàm lượng oxy thấp, ô nhiễm từ
nguồn nước thải công nghiệp, …
Dùng thuốc tím (KMnO4) tắm cá, liều dùng là 4 ppm (4 g/m3 nước) đối với cá
nuôi ao và 10 ppm (10 g/m3 nước) đối với cá nuôi bè. Xử lý lập lại sau 3 ngày, định
kỳ tắm cá một tuần, hai tuần hoặc một tháng/lần tùy thuộc vào tình trạng sức khoẻ
cá.
Dùng thuốc trộn vào thức ăn: Oxytetracylin 55 – 77 mg/kg thể trọng cá nuôi,
cho ăn 7 – 10 ngày (nên hạn chế sử dụng). Enrofloxacin 20 mg/kg thể trọng cá nuôi,
cho cá ăn 7 – 10 ngày. Streptomycin 50 – 70 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 5 – 7
ngày. Kanamycin 50 mg/kg thể trọng cá nuôi, cho ăn 7 ngày. Nhóm Sulfamid 100 –
200 mg/kg thể trọng cá, cho ăn 10 – 20 ngày.
2.6.3 Bệnh nhiễm khuẩn do Pseudomonas (bệnh đốm đỏ)
Tác nhân gây bệnh bao gồm: Pseudomonas fluorescens, P. anguilliseptica, P.
chlororaphis, …
Đối tượng nhiễm bệnh: các loài cá nuôi nước ngọt như cá tra, cá basa, cá trê,
cá bống tượng, cá tai tượng, …
8
Dấu hiệu bệnh lý: xuất huyết từng đốm đỏ trên da, xung quanh miệng và nắp
mang, phía mặt bụng. Bề mặt cơ thể có thể bị chảy máu, tuột nhớt nhưng không xuất
huyết vây và hậu môn, … Pseudomonas spp. gây nhiễm khuẩn huyết thường liên
quan đến stress, các thương tổn da, vẩy do các tác nhân cơ học, nuôi với mật độ cao,
dinh dưỡng kém, hàm lượng oxy giảm. Pseudomonas spp. xâm nhập vào cơ thể cá
qua các đường thương tổn ở mang, da, …
Phòng trị: dùng vaccin phòng bệnh, giảm mật độ nuôi. Cung cấp nguồn nước
tốt. Tắm 3 – 5 ppm (KMnO4) không quy định thời gian. Có thể dùng các loại kháng
sinh để điều trị như trong bệnh nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.
2.6.4 Bệnh nhiễm khuẩn huyết do Edwardsiella (edwarsiellosis).
Tác nhân gây bệnh: bệnh do vi khuẩn Edwardsiella tarda.
Đối tượng nhiễm bệnh: các loài cá nuôi nước ngọt như cá tra, cá điêu hồng, cá
basa, cá trê, cá rô phi, …
Dấu hiệu bệnh lý: xuất hiện những vết thương nhỏ trên da (phía mặt lưng),
đường kính khoảng 3 – 5 mm, những vết thương này sẽ phát triển thành những khối u
bên trong cơ thể, da bị mất sắc tố. Cá mắc bệnh sẽ mất chức năng vận động do vây
đuôi bị tưa rách. Có thể xuất hiện những vết thương bên dưới biểu bì, cơ, khi ấn vào
sẽ phát ra khí có mùi hôi, các vết thương này sẽ gây hoại tử vùng cơ chung quanh.
Bệnh thường xảy ra trên cá lớn trong ruột một vài loài rắn, cá và một số loài bò sát,
ếch nhái có thể là nguồn lây nhiễm mầm bệnh E. tarda. Bệnh xuất hiện khi chất
lượng nước trong môi trường nuôi xấu, nuôi với mật độ dày, nhiệt độ thích hợp để
bệnh phát triển khoảng 300C . Tuy nhiên bệnh cũng xuất hiện khi nhiệt độ nước thấp
hơn và dao động bình thường.
Phòng trị: cải tiến chất lượng nước trong môi trường nuôi. Giảm thấp mật độ
nuôi. Dùng vaccine phòng bệnh, có thể dùng kháng sinh để điều trị như trong bệnh
nhiễm khuẩn huyết do Aeromonas.
2.6.5 Nhiễm Staphylococcus
Tác nhân gây bệnh: Staphylococcus epidermidis. Đây là tụ cầu khuẩn Gram
dương.
Đối tượng nhiễm bệnh: chỉ gây bệnh trên cá rô phi, không gây bệnh trên các
loài cá nuôi ghép với cá rô phi (Huang và ctv., 1998).
9
Dấu hiệu bệnh lý: đa số cá bệnh không có dấu hiệu bệnh lý bên ngoài rõ
ràng, vài trường hợp thấy mắt lồi, những thương tổn ở da và vây, bụng căng chứa
nhiều dịch, cá sắp chết lờ đờ và bơi lội quay vòng trên mặt nước hoặc đáy ao, lá lách
sưng to,