Theo đề án phát triển nuôi cá rô phi giai đoạn 2003 – 2010 của Bộ Thủy sản, mục tiêu đến năm 2010 nhằm tăng diện tích nuôi lên 10.000 ha, 1 triệu m3lồng, sản lượng 200.000 tấn với giá trị xuất khẩu đạt 150 triệu USD. Trong chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 – 2010, Bộ Thủy sản đã xếp cá rô phi vào vị trí hàng đầu trong các loài thủy hải sản nuôi (Trích bởi Nguyễn Thị Ngọc Bích, 2005).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 53 trang
53 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều chế kháng huyết thanh thỏ và khảo sát đáp ứng miễn dịch của cá rô phi đỏ đối với vi khuẩn Streptococcus sp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
 I. GIỚI THIỆU 
1.1. Đặt vấn đề 
 Theo đề án phát triển nuôi cá rô phi giai đoạn 2003 – 2010 của Bộ Thủy sản, 
mục tiêu đến năm 2010 nhằm tăng diện tích nuôi lên 10.000 ha, 1 triệu m3 lồng, sản 
lượng 200.000 tấn với giá trị xuất khẩu đạt 150 triệu USD. Trong chương trình phát 
triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 – 2010, Bộ Thủy sản đã xếp cá rô phi vào vị trí 
hàng đầu trong các loài thủy hải sản nuôi (Trích bởi Nguyễn Thị Ngọc Bích, 2005). 
 Trên thế giới, hiện nay cá rô phi nuôi xếp vị trí thứ ba về sản lượng, đạt 
1.374.239 tấn vào năm 2002, có giá trị 1.706.538.200 USD (năm 2000) (http:// 
ag.arizona.edu/azaqua/ista/market/htm), dự đoán trong vài năm tới sản lượng cá rô phi 
nuôi sẽ đạt vị trí hàng đầu. Những thành quả đạt được và mục tiêu phấn đấu của nghề 
nuôi cá rô phi rất hứa hẹn nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết thỏa 
đáng. 
 Một trong số những vấn đề đó là bệnh trên cá nuôi. Song song với sự mở rộng 
quy mô và áp dụng nhiều mô hình nuôi tiên tiến để nâng cao năng suất là sự gia tăng 
về bệnh. Bệnh là một trong những nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển nghề nuôi 
thủy sản hiện nay. Từ khi bắt đầu nghề nuôi thủy sản thâm canh, việc kiểm soát bệnh 
dựa chủ yếu vào các biện pháp hóa trị liệu. Tuy nhiên các biện pháp này bộc lộ nhiều 
nhược điểm. Điều này dẫn đến các áp lực từ phía người tiêu dùng, các tổ chức chính 
phủ và môi trường về nhu cầu được hưởng thụ các sản phẩm nuôi trồng an toàn về mặt 
vệ sinh thực phẩm và môi trường bảo đảm sản xuất bền vững. Trước các thực tế đó, 
việc dùng vaccine để kiểm soát bệnh là một sự lựa chọn đúng đắn. Nghiên cứu vaccine 
dùng trong thủy sản là sự kế thừa hợp lí nghiên cứu vaccine dùng trong chăn nuôi và 
chăm sóc sức khỏe con người. 
 Bệnh do vi khuẩn Streptococcus sp. được báo cáo đầu tiên tại Nhật Bản vào 
năm 1958 trên loài cá hồi nuôi (Hoshina và ctv., 1958; trích bởi Yanong và Floyd, 
2001) . Bệnh có tỉ lệ chết cao, có thể lên tới 100% trong vòng vài ngày phát bệnh. 
Hiện nay, bệnh do vi khuẩn Streptococcus sp. đã được phát hiện trên nhiều đối tượng 
nuôi và tại nhiều nơi trên khắp thế giới: Viễn Đông, Hoa Kỳ, Nam Phi, Trung Mỹ, 
Nhật, Israel, ... 
 2 
 Hiện nay trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về khả năng đáp ứng 
miễn dịch của cá đối với vi khuẩn Streptococcus sp. cũng như vaccine phòng bệnh 
trên. Một số công trình đó như: Alkhlaghi và ctv.(1996) nghiên cứu cách cấp vaccine 
dạng FKC có thêm chất bổ trợ; Eldar và ctv.(1997) nghiên cứu về thời gian tạo đáp 
ứng miễn dịch sau khi cấp vaccine ở cá hồi đạt tới 4 tháng; Eldar và ctv. (1995), 
Bercovier và ctv. (1997) nghiên cứu hiệu lực của vaccine phòng Streptococcus 
difficile; Bunch và Bejerano (1997) nghiên cứu các ảnh hưởng của các yếu tố môi 
trường lên sự nhạy cảm của cá rô phi lai do Streptococcus sp.; các công trình nghiên 
cứu của nhóm các nhà khoa học tại phòng thí nghiệm nghiên cứu sức khỏe động vật 
thủy, Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ ( Aquatic Animal Health Research Laboratary, ARS, 
USDA) gồm: Shoemaker C.A., Klesius P. H., Evans J. J.. Họ đã lấy bằng sáng chế về 
vaccine phòng bệnh do Streptococcus iniae tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên ở nước ta các công 
trình nghiên cứu về bệnh trên cá rô phi chưa nhiều, chỉ có vài công trình nghiên cứu 
chủ yếu tập trung vào ký sinh trùng như công trình nghiên cứu của Bùi Quang Tề và 
ctv. (1999; trích bởi Võ Văn Tuấn, 2005), và hầu như chưa có hoặc có rất ít công trình 
có tầm cỡ nghiên cứu về tác nhân vi khuẩn gây bệnh trên cá rô phi cũng như các công 
trình nghiên cứu về vacine và các chế phẩm miễn dịch phòng bệnh cho cá. 
 Vì vậy để đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc nuôi và phòng trị bệnh hữu hiệu 
, được sự phân công của Bộ môn Công nghệ sinh học, Trường Đại học Nông lâm Tp. 
Hồ Chí Minh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Điều chế kháng huyết thanh 
thỏ và khảo sát đáp ứng miễn dịch của cá rô phi đỏ đối với vi khuẩn 
Streptococcus sp. ”. 
1.2. Mục tiêu: 
 Xác định mức độ tạo đáp ứng miễn dịch của thỏ khi tiêm FKC của vi khuẩn 
Streptococcus sp. nhằm điều chế kháng huyết thanh thỏ kháng Streptococcus sp. dùng 
cho mục đích chẩn đoán. 
 Xác định ảnh hưởng của mật độ nuôi lên đáp ứng miễn dịch và tỷ lệ cảm 
nhiễm của cá rô phi đỏ đối với vi khuẩn Streptococcus sp. . 
 Xác định thời gian tạo đáp ứng miễn dịch đặc hiệu của cá đối với vi khuẩn 
Streptococcus sp.. 
 3 
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1. Một số đặc điểm sinh học của cá rô phi 
2.1.1. Nguồn gốc 
Cá rô phi có nguồn gốc từ Châu Phi. Năm 1924, cá rô phi được nuôi đầu tiên ở 
Kenya và sau đó nuôi rộng rãi nhiều nước ở Châu Phi và trên thế giới, nhiều nhất là 
những nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chỉ vài chục năm gần đây, việc nuôi cá rô phi 
mới thực sự phát triển mạnh và trở thành một ngành nuôi có qui mô công nghiệp, cho 
sản lượng thương phẩm lớn và đạt hiệu quả kinh tế cao. 
Rô phi đỏ (Oreochromis sp.) được lai tạo từ cá bố có dạng đột biến lặn màu đỏ 
của loài O. mossambicus, còn mẹ thì cũng cùng giống Oreochromis nhưng có thể 
thuộc loài khác. Tất cả chúng đều có tên tiếng Anh chung là Red Tilapia. Rô phi đỏ 
được phân lập lần đầu tiên ở Đài Loan trong những năm 70 của thế kỷ trước từ thế hệ 
lai giữa con màu đỏ O. mossambicus với con màu đen hoang dại của rô phi sông Nile 
O. niloticus (Mai Chi, 2002). Cá rô phi đỏ được nhập vào nước ta từ Thái Lan năm 
1985. 
2.1.2. Phân loại 
 Lớp : Osteichthyes 
Lớp phụ : Actynopterigii 
Bộ : Perciformes 
Bộ phụ : Perciidae 
Họ : Cichlidae 
Giống : Tilapia, Sarotherodon và Oreochromis. 
Việc phân loại cá rô phi dựa vào tập tính sinh sản của các loài được nhiều nhà 
khoa học công nhận. Ở giống Oreochromis, cá đực làm tổ và cá cái ấp trứng trong 
miệng. Ở giống Sarotherodon thì cả con đực và con cái đều ấp trứng ở trong miệng. Ở 
giống Tilapia thì cần giá thể khi đẻ trứng, cá đực và cá cái cùng tham gia bảo vệ tổ 
(Võ Văn Tuấn, 2005). 
2.1.3. Môi trƣờng sống 
Các loài cá rô phi phát triển tốt ở nhiệt độ 20 – 310C, ngưỡng nhiệt độ thấp gây 
chết cá là 10 – 110C, chết nóng ở 420C (Theo Nguyễn Văn Tư, 2003). Môi trường 
 4 
sống có pH thích hợp từ 6,5 – 8,5, tuy nhiên cá có thể sống ở pH = 4 và pH = 11 
nhưng sinh trưởng không tốt. Rô phi sống được ở cả môi trường nước ngọt lẫn nước 
mặn với độ muối lên đến 32‰ và trong môi trường có nồng độ oxy hòa tan thấp (Trích 
bởi Võ Văn Tuấn, 2005). 
2.1.4. Đặc điểm sống và tập tính dinh dƣỡng 
Trứng cá rô phi thụ tinh được ấp trong miệng cá mẹ (ở giống Oreochromis) ở 
28
0C sẽ nở sau 4 ngày. 
Cá bột sau khi nở 3 – 5 ngày tuổi thì có thể bơi lội tự do ở bên ngoài. Khi có 
dấu hiệu nguy hiểm thì cá mẹ tìm cách báo động cho cá con biết để bơi vào miệng mẹ 
(Mai Đình Yên và ctv., 1982; trích bởi Võ Văn Tuấn, 2005). Giai đoạn này cá ăn phiêu 
sinh động (Zooplankton) nhỏ như là Moina, Daphnia, Cyclops. 
Cá 20 ngày tuổi trở lên chọn thức ăn giống như cá trưởng thành. Cá trưởng 
thành ăn thực vật hoặc ăn tạp mà thành phần thức ăn gồm thực vật thủy sinh và mùn 
bã hữu cơ (Bowen, 1982; trích bởi Võ Văn Tuấn, 2005). 
2.1.5. Đặc điểm sinh sản 
 Mùa vụ sinh sản 
Rô phi đẻ quanh năm (trừ những ngày quá lạnh hoặc quá nóng), đẻ nhiều nhất 
từ tháng 5 đến tháng 10. Mỗi năm đẻ từ 5 – 11 lứa, mỗi lứa đẻ 100 – 3400 trứng. 
Trong một buồng trứng thường có 5 lứa trứng. 
 Tuổi thành thục 
Cá rô phi thành thục sinh dục rất sớm, bắt đầu sinh sản sau khi nở 3 – 4 tháng. 
Cỡ cá thành thục nhỏ nhất khoảng 40g. Thời gian tái thành thục khoảng 1 – 2 tháng. 
 Phân biệt đực cái ở cá rô phi 
Khi đến tuổi phát dục thì ở mép các vây đuôi, vây lưng và vây bụng ở cá đực có 
màu sắc rực rỡ từ hồng đến xanh đen, trong khi đó thì cá cái không có sự thay đổi về 
màu sắc mà bụng của nó phát triển rất nhanh. 
Ngoài ra ta có thể phân biệt được cá rô phi đực cái ngay khi chúng còn nhỏ, cỡ 
6 – 7 cm, bằng cách nhìn vào vùng lỗ huyệt. Cách phân biệt này càng chính xác khi cá 
gần thành thục sinh dục. 
+ Cá đực có 2 lỗ: phía trước là lỗ hậu môn, phía sau là rãnh huyệt (còn gọi là 
huyệt niệu sinh dục). 
+ Cá cái có 3 lỗ: lỗ hậu môn, lỗ niệu và lỗ sinh dục. 
 5 
 Tập tính sinh sản 
Tùy theo loài mà cá rô phi có tập tính sinh sản khác nhau. Đối với loài cá rô phi 
đen và vằn khi sinh sản, cá đực làm tổ bằng cách đào hố trên đáy ao và chiến đấu 
chống lại cá đực khác, cá cái thành thục đi đến nơi làm tổ mà ở đó các cá đực đang 
phô diễn một cách tích cực. Việc bắt cặp và đẻ xảy ra nhanh. Con cái nhanh chóng 
nhặt trứng vào miệng ngay khi trứng được thụ tinh bởi con đực và tìm nơi trú ẩn. Thời 
gian ấp khoảng 10 ngày, sau đó cá mẹ tiếp tục chăm sóc khoảng 1 – 4 ngày thì cá con 
có thể tự đi kiếm ăn. Con cái sau thời kì ấp trứng và chăm sóc cá con sẽ ăn tích cực và 
hồi phục, thường kéo dài 2 – 4 tuần, trước khi no sẳn sàng đẻ trở lại. 
Hình 2.1. Cá rô phi đỏ (điêu hồng) 
2.2. Tình hình nuôi cá rô phi trên thế giới và ở Việt Nam 
2.2.1. Trên thế giới 
 Hiện nay có trên 85 quốc gia nuôi cá rô phi trên khắp các châu lục trên thế giới. 
Trung Quốc là nước dẫn đầu thế giới về sản lượng cá rô phi nuôi, đạt 315.000 tấn, 
chiếm 48% sản luợng chung của thế giới. Nhìn chung cá rô phi được đánh bắt tự nhiên 
ngày càng khan hiếm nên lượng cá bán trên thị trường hiện nay chủ yếu là cá nuôi. 
Năm 2000, sản lượng cá rô phi nuôi đạt 754.000 tấn (Theo FAO, 2001.). 
 Về quy mô châu lục, các quốc gia ở châu Á là nơi nuôi nhiều cá rô phi nhất, 
cung ứng 62% sản lượng toàn thế giới, đạt 620.100 tấn, kế đến là các quốc gia thuộc 
châu Đại Dương, đạt 280.050 tấn, châu Phi: 114.000 tấn, châu Mỹ: 84.450 tấn . 
 Về thị trường cá rô phi: hiện nay thị trường về cá rô phi rất lớn đã góp phần đẩy 
nhanh tốc độ phát triển nghề nuôi này. Thị trường có nhu cầu lớn về dạng con còn 
 6 
sống, nguyên con tươi, đông lạnh hoặc xông khói. Mỹ là thị trường cá rô phi lớn nhất 
thế giới, chiếm 88%. Năm 1993, Mỹ chỉ nhập có 14.528 tấn thì đến năm 2000 đã là 
61.762 tấn. Năm 2001, cá rô phi nhập khẩu vào Mỹ tăng 39% về khối lượng, trong đó 
Việt Nam tham gia được gần 60 tấn (Báo Khoa học phổ thông và Nhà văn hóa khoa 
học, 2002; trích www.ctu.edu.vn/colleges/uquaculture/aquafishdata/index.htm). 
Bảng 2.1: Sản lƣợng và giá thành cá rô phi của một số nƣớc 
 sản xuất trên thế giới năm 2000 
(Theo Fitzsimmons, 2002, trích 
www.ctu.edu.vn/colleges/uquaculture/aquafishdata/index.htm) 
Quốc gia Sản lượng 
(Tấn) 
Giá thành 
(USD/kg) 
Quốc gia Sản lượng 
(Tấn) 
Giá thành 
(USD/kg) 
Trung Quốc 
Mexico 
Philippines 
Đài Loan 
Indonesia 
Thái Lan 
150.000 
102.000 
95.000 
90.000 
50.000 
40.000 
1,0 
1,3 
1,1 
1,5 
1,2 
1,3 
Brazil 
Cuba 
Colombia 
Ecuador 
Costa Rica 
45.000 
39.000 
23.000 
15.000 
10.000 
1,1 
1,1 
1,3 
1,1 
1,2 
Bảng 2.2.: Sản lƣợng và giá trị xuất khẩu cá rô phi 
 sang Mỹ của một số quốc gia 
(Theo NASSA, 2002; trích bởi 
www.ctu.edu.vn/colleges/uquaculture/aquafishdata/index.htm) 
Quốc gia Sản lượng 
(kg) 
Giá trị 
(USD) 
Quốc gia Sản lượng 
(kg) 
Giá trị 
(USD) 
Trung Quốc 
Costa Rica 
Ecuador 
Honduras 
Indonesia 
13.589.832 
3.108.922 
5.159.163 
1.437.708 
2.217.74 
19.711.012 
16.485.179 
32.719.948 
8.634.514 
10.916.541 
Jamaica 
Panama 
Đài Loan 
Thái Lan 
Việt Nam 
119.111 
352.553 
29.808.742 
259.596 
59.897 
766.096 
2.110.785 
34.459.643 
941.509 
206.274 
 7 
2.2.2. Ở Việt Nam 
 Sau một thời gian dài bị lãng quên, năm 1994 nhờ tiếp nhận một số dòng cá rô 
phi vằn có phẩm chất tốt và áp dụng nhiều công nghệ tiến bộ đã làm thức dậy nghề 
nuôi cá rô phi ở nước ta. Một số cơ sở tại miền Nam đã mạnh dạn đầu tư nuôi cá rô phi 
theo phương pháp công nghiệp. Năm 1996, sản lượng cá rô phi nuôi ở nước ta ước tính 
đạt 15.000 tấn (Nguyễn Công Dân và ctv., 1997; trích bởi Trần Văn Vỹ, 1999) 
2.2.3. Các tiến bộ kĩ thuật trong nghề nuôi cá rô phi 
 Hiện nay trong nghề nuôi cá rô phi nhiều kĩ thuật mới đã được áp dụng để khắc 
phục nhược điểm về mùi bùn, cá chậm lớn do mang trứng, tỉ lệ phi lê thấp với mục 
đích cuối cùng là thu được sản phẩm từ cá sau cùng có giá trị thương mại cao, được thị 
trường chấp nhận (Báo Khoa học phổ thông và Nhà văn hóa khoa học, 2002; trích 
website: www.ctu.edu.vn/colleges/uquaculture/aquafishdata/index.htm). 
Các loại hình nuôi cá rô phi hiện nay khá phong phú. Ngoài phương thức nuôi 
ao, hầm còn có phương thức nuôi bè trên sông, kênh, rạch, ao, hồ, nuôi trên dòng nước 
chảy, kênh mương dẫn nước, trong bể chứa, nuôi trong ruộng lúa và nuôi bè cả trên 
mặt biển như ở Philippines (Báo Khoa học phổ thông và Nhà văn hóa khoa học, 2002; 
trích www.ctu.edu.vn/colleges/uquaculture/aquafishdata/index.htm). 
 Một tiến bộ nữa trong nghề nuôi cá rô phi là việc thực hiện các chương trình cải 
thiện giống, tạo giống mới với mục đích hoặc là cải thiện tốc độ sinh trưởng của cá, 
hoặc là tạo cho cá có màu sắc hợp thị hiếu như cá rô phi đỏ - điêu hồng (Mai Chi, 
2002). Hiện nay trên thế giới giống cá rô phi được nuôi nhiều nhất là cá rô phi sông 
Nile (Oreochromis niloticus) và cá rô phi vằn (O. mossambicus). Cá rô phi sông Nile 
chiếm tỉ lệ nuôi cao nhất và tăng từ 33% (66.000 tấn) vào năm 1984 lên 72% (474.000 
tấn) vào năm 1995. Nó được nuôi nhiều nhất ở Đài Loan (tỉ lệ 39% ), Philipines 
(16%), Mexico (13% ), Mỹ (5,8% ) với nhiều dạng cá lai nuôi như: O. niloticus, 
O.aureus, O. mossambicus, O. hornorum và cá rô phi đỏ. Hiện nay nhiều nước đang 
tuyển chọn cá rô phi dạng đỏ, như cá rô phi đỏ của Singapore chọn từ O. mossambicus 
Mutante (Pruginin và ctv.,1988), của Florida là cá lai F1 giữa O. mossambicus Albina 
X O. urolepis hornorum (Sipe, 1985), của Tailandesa chọn từ O.niloticus Roja, của 
Manzala chọn từ cặp lai O. aureus Roja X O. niloticus (Egipcia) Roja (Mc Andrew và 
ctv., 1988; Tave, 1991), giống Yumbo No 1 lai giữa dạng Florida đỏ và O. niloticus 
(Castillo, 1990); giống Yumbo No 2 lai giữa Red Tilapia USA và Red Tilapia Israel,... 
 8 
Hoặc sản xuất giống cá rô phi đơn tính bằng cách cho cá con ăn thức ăn có tỉ lệ đạm 
cao, phối trộn với methlytestosterone sẽ cho tỉ lệ đực rất cao (Báo Khoa học phổ thông 
và nhà văn hóa khoa học, 2002; trích 
www.ctu.edu.vn/colleges/aquaculture/aquafishdata/index.htm ). 
2.3. Tình hình dịch bệnh ở cá rô phi 
 Cùng với sự gia tăng mật độ trong hệ thống nuôi là sự gia tăng về bệnh. Trong 
thời gian gần đây, người nuôi luôn phải đương đầu với vấn đề bệnh trên động vật thủy 
sản. Bệnh trên cá rô phi xảy ra khắp nơi, trong đó một số đã phát triển thành những 
trận dịch. Đài Loan là nước từng đã hứng chịu rất nhiều trận dịch trên cá rô phi. Chien 
(1991; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004) đã mô tả bệnh trong một hệ thống nuôi cá rô 
phi vằn do Saprolegnia sp. gây ra. Trận dịch năm 1992 đã làm chết rất nhiều cá rô phi 
trong những ao nuôi nước ngọt ở miền Đông và Nam Đài Loan, sau đó lan rộng ra các 
đảo trong khu vực ở cả nước lợ và nước mặn (Huang và ctv., 1998). 
 Tại Israel, một tác nhân gây bệnh rất giống nấm Branchiomyces đã làm chết 
85% cá rô phi đỏ và cá rô phi lai. Tại một đầm nuôi cá rô phi nước lợ ở Hưng Yên 
thuộc tỉnh Quảng Ninh đã xảy một trận dịch vào cuối năm 1997, nguyên nhân do đĩa 
Piscicola sp. và đã làm chết khoảng 20 – 25 tấn cá (Bùi Quang Tề, 2001; trích bởi Võ 
Văn Tuấn, 2005). 
2.4. Tình hình nghiên cứu bệnh trên cá rô phi 
2.4.1. Trên thế giới 
 Hiện nay trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về bệnh trên cá rô phi 
do các tác nhân vi khuẩn như: Miyazaki và ctv. (1984; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004) 
nghiên cứu mô học cá bị nhiễm Pseudomonas fluorescens và Streptococcus sp., Chang 
và Plumb (1996; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004) nghiên cứu mô học cá rô phi vằn 
nhiễm Streptococcus sp. và ảnh hưởng của độ mặn lên quá trình nhiễm Streptococcus 
sp. của cá rô phi vằn, Bunch và Bejerano (1997; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004) 
nghiên cứu ảnh hưởng của những yếu tố môi trường lên sự nhạy cảm của cá rô phi lai 
đối với bệnh do Streptococcus sp., Huang và ctv. (1996; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 
2004) nghiên cứu dịch tể học và khả năng sinh bệnh của Staphylococcus epidermidis 
trên cá rô phi nuôi ở Đài Loan và các tác giả này kết luận rằng S. epidermidis là một 
tác nhân gây bệnh ở cá rô phi,... 
 9 
2.4.2. Tại Việt Nam 
 Hiện nay ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về bệnh cá rô phi chưa nhiều, 
chỉ có vài công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào kí sinh trùng và hầu như chưa 
có hoặc có rất ít công trình có tầm cỡ nghiên cứu về tác nhân virus hay vi khuẩn gây 
bệnh trên cá rô phi. Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam như: nghiên cứu về kí 
sinh trùng trên một số dòng cá rô phi vằn ở Bắc Ninh và Quảng Ninh (Bùi Quang Tề 
và ctv., 1999; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004) hay nghiên cứu về kí sinh trùng ở những 
giai đoạn khác nhau trên ba dòng cá rô phi nuôi (O. niloticus) như dòng Thái, dòng 
Việt và dòng GIFT (Genetical Improved Farm Tilapia) tại miền Bắc Việt Nam (Bùi 
Quang Tề và Vũ Thị Lụa, 1999; trích bởi Nguyễn Tri Cơ, 2004). 
2.5. Một số thông tin về liên cầu khuẩn Streptococcus iniae gây bệnh trên cá rô 
phi 
2.5.1. Đặc điểm hình thái, sinh lí, sinh hóa 
 Streptococcus iniae là một loài vi khuẩn thuộc giống Streptococcus. 
Streptococcus gồm vài loài được xác định là tác nhân gây bệnh trên nhiều kí chủ. Phần 
lớn các loài trong giống này vẫn chưa được xác định đầy đủ. Các đặc điểm dùng để 
định danh Streptococcus sp. thông thường trên loài hữu nhũ không được áp dụng nhiều 
khi xác định tác nhân gây bệnh trên cá. Một số loài vi khuẩn thuộc giống 
Streptococcus gây bệnh trên cá đã được xác định, bao gồm: Streptococcus difficile 
phát hiện ở Israel, S. milerri (Austin và Austin, 1999), S. parauberis phân lập từ loài 
cá bơn nuôi ở miền Bắc Tây Ban Nha (Austin và Austin, 1999), S. iniae được phát 
hiện trên nhiều loài và cả ở thú hữu nhủ (Austin và Austin, 1999; trích bởi Yanong và 
Floyd, 2001). Ngoài ra còn một số loài vi khuẩn có mối quan hệ họ hàng rất gần gũi 
với Streptococcus và gây ra các triệu chứng bệnh tương tự như: Lactococcus garvieae 
(Austin và Austin, 1999), L. piscium và Vagococcus salmoninarum (Yanong và Floyd, 
2001). Tất cả chúng gây ra hội chứng bệnh có tên là bệnh do liên cầu khuẩn 
(streptococcosis). Bệnh streptococcosis được Hoshina và ctv. báo cáo đầu tiên vào 
năm 1958 ở Nhật Bản trên loài cá hồi nuôi. 
 Streptococcus iniae cùng với vi khuẩn Lactococcus garvieae là những tác nhân 
gây bệnh chủ yếu của bệnh streptococcosis ở cá, theo ước tính nó là nguyên nhân gây 
ra 50% số cái chết trong tháng đầu của vụ nuôi và tới 80% số cá nuôi bị tổn thất khi 
kết thúc vụ nuôi, đặc biệt nghiêm trọng nếu bệnh xảy ra trong những tháng mùa lạnh . 
 10 
S. iniae được phân lập đầu tiên trên loài cá heo vùng sông Amazone vào thập niên 70 
của thế kỷ trước. Tuy nhiên nó chỉ được coi là tác nhân gây bệnh sau một vụ bộc phát 
trên cá rô phi lai vào năm 1994 (Yanong và Floyd, 2001). S. iniae có thể gây bệnh trên 
cả cá lẫn thú, kể cả con người (Austin và Austin, 1999; Weistein và ctv., 1997). 
 S. iniae có dạng hình cầu, có thể đứng riêng lẻ, thành từng cặp hoặc tạo thành 
chuỗi dài. Vi khuẩn S. iniae bắt màu Gram dương . Đặc điểm này của nó khá hữu ích 
cho công tác phân lập vì thông thường các tác nhân vi khuẩn gây bệnh trên cá thuộc 
nhóm vi khuẩn Gram âm. 
 Vi khuẩn S. iniae phát triển tốt trên các môi trường thạch Tryptic Soyar Agar, 
Brain Heart Infusion, Muller – Hinton và thạch máu cừu. Nhiệt độ nuôi cấy thích hợp 
từ 25 – 28oC. Sau 48h nuôi cấy, vi khuẩn tạo thành khuẩn lạc nhỏ (0,5 – 0,7mm) màu 
trắng đục. Một số chủng khuẩn lạc trong suốt có tính nhầy sau 24h nuôi cấy. Trên môi 
trường thạch máu, khuẩn lạc tạo vòng dung huyết beta nhỏ, trong suốt, rìa không rõ. 
Vi khuẩn không phát triển ở điều kiện pH 9,6, NaCl 6,5%, nhiệt độ 10 và 45oC 
(Nguyen và Kanai, 1999). 
S. iniae thủy phân esculin và tinh bột, không thủy phân gelatin. Vi khuẩn lên 
men đường glucose, maltose, mannitol, không lên men arabinose, lactose, raffinose v