Trong cuộc sống hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, con người ngày càng quan tâm đến vấn đề sức khỏe của mình hơn. Một trong những căn bệnh của thời đại phải kể đến gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ có thể đến với bất kỳ ai. Một người bị béo phì hay cả những người bị suy dinh dưỡng. Nghe có vẻ lạ nhưng đó là sự thật. Vậy làm sao chúng ta biết mình có bị gan nhiễm mỡ hay không? Làm thế nào để điều trị?.
17 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm dinh dưỡng cho người bệnh gan nhiễm mỡ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HCM
KHOA KỸ THUẬT HÓA HỌC
NGÀNH CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
õ
Đề tài
DINH DƯỠNG VÀ AN TOÀN
THỰC PHẨM
DINH DƯỠNG CHO
NGƯỜI BỆNH GAN NHIỄM MỠ
GVHD : Trần Thị Thu Trà
SV thực hiện :
Đặng Minh Tùng
Trần Thị Như Nguyệt
Trần Trọng Hiếu
Lý Anh Thư
Thành phố Hồ Chí Minh- Tháng 10 năm 2009
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, con người ngày càng quan tâm đến vấn đề sức khỏe của mình hơn. Một trong những căn bệnh của thời đại phải kể đến gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ có thể đến với bất kỳ ai. Một người bị béo phì hay cả những người bị suy dinh dưỡng. Nghe có vẻ lạ nhưng đó là sự thật. Vậy làm sao chúng ta biết mình có bị gan nhiễm mỡ hay không? Làm thế nào để điều trị?...
Người xưa đã dạy: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Và biện pháp tốt nhất để đề phòng các căn bệnh nói chung và gan nhiễm mỡ nói riêng là ta cần có một chế độ dinh dưỡng hợp lý. Ở đây chúng tôi không hề đưa ra một khẩu phần riêng cho mỗi người mà chỉ nêu ra các khuyến cáo về các thành phần dinh dưỡng nên có và không nên có trong thức ăn của các bệnh nhân.
Trong quá trình tìm kiếm nghiên cứu về đề tài này sẽ không thể không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của cô và các bạn qua địa chỉ : hai60700686@gmail.com.
Chân thành cảm ơn!
DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỊ GAN NHIỄM MỠ
GAN VÀ BỆNH GAN NHIỄM MỠ
áGan là một trong những cơ quan nặng nhất trong cơ thể người, nó nặng khoảng 1200 – 1500g, nằm ở phần trên vùng bụng và dưới lồng ngực. Gan có những chức năng quan trọng:
1. Chuyển hóa protein.
- Tổng hợp protein huyết tương.
- Khử amin của các axit amin
- Tạo thành urê.
2. Chuyển hóa cacbonhydrat.
- Tổng hợp, dự trữ, giải phóng glycogen.
- Tổng hợp heparin.
3. Chuyển hóa lipit.
- Tổng hợp lipoprotein, phospholipit, cholesterol.
- Tổng hợp muối mật
- Tạo dịch mật.
- Oxy hóa các axit béo.
4. Chuyển hóa chất khoáng.
- Dự trữ sắt, đồng và các chất khoáng khác.
5. Chuyển hóa vitamin A và D.
- Chuyển hóa caroten thành VITAMIN A, VITAMIN K thành prothrombin.
6. Khử độc các sản phẩm phân giải, chất khoáng, một số thuốc độc B1 Chất màu.
á “ định nghĩa” Gan nhiễm mỡ
Gan nhiễm mỡ là sự tích lũy của chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của Gan hoặc quan sát dưới kính hiển vi thấy nhiều hơn 5% số tế bào gan chứa các hạt mỡ.
Gan bình thường chứa khoảng 5g lipit cho mỗi 100 g trọng lượng của gan, trong đó khoảng 14% là triglyceride, 64% phospholipids, 8% cholesterol, và 14% là các acid béo tự do. Trong gan nhiễm mỡ, lượng chất béo có thể chiếm đến 50% trọng lượng của gan trong đó hơn một nửa là các triglyceride.
Người ta phân loại gan nhiễm mỡ thành 3 mức độ:
Mức độ nhẹ: lượng mỡ tích tụ ở gan chiếm 5-10% trọng lượng gan.
Mức độ trung bình: lượng mỡ tích tụ ở gan chiếm 10 – 25% trọng lượng gan
Mức độ nặng : lượng mỡ tích tụ ở gan chiếm trên 25% trọng lượng gan. Có khi lên đến 40–50%
Phần lớn các trường hợp gan nhiễm mỡ không có triệu chứng. Tuy nhiên, gan nhiễm mỡ có thể chỉ biểu hiện với triệu chứng mệ mỏi và cảm giác khó chịu ở vùng thượng vị phải. Với tình trạng gan nhiễm mỡ nặng có thể có triệu chứng vàng da, đau bụng buồn nôn, ói mửa và gan to nhẹ. Ở những bệnh nhân gan nhiễm mỡ do những nguyên nhân khác nhau thì cũng có kèm theo những triệu chứng toàn thân và những dấu hiệu đặc trưng của những nguyên nhân đó.
CÁC DẠNG GAN NHIỄM MỠ
FATTY LIVER NORMAL LIVER
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY RA GAN NHIỄM MỠ
Mãn tính:
Nghiện rượu
Bệnh béo phì (viêm gan nhiễm mỡ)
Bệnh tiểu đường
Tăng lipid máu
Phẩu thuật nối hồi-hổng tràng
Thiếu hụt dinh dưỡng protein-năng lượng
Nuôi ăn qua đường tĩnh mạch
Những rối loạn di truyền về oxi hóa acid béo ở ty lạp thể
Các bệnh gan khác(viêm gan C mãn tính, bệnh Wilson )
Bệnh hệ thống (viêm ruột, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải-AIDS)
Cấp tính
Gan nhiễm mỡ trong thai kỳ
Hội chứng Reye
Bệnh ói mửa Jamaican
Các chất độc dạng hợp chất (carbon tetrachloride, trichloroethylene, phosphorus, fialuridine)
Thuốc (tetracycline, valproic acid, amiodarone, glucocorticoids và tamoxifen)
Gan nhiễm mỡ do rượu:
Vai trò chính yếu của rượu trong việc gây ra gan nhiễm mỡ đã được củng cố qua những mô tả sự hình thành gan nhiễm mỡ trên thú vật thí nghiệm và người được cho uống kèm rượu theo trong một chế độ ăn cân bằng đầy đủ. Rượu có độc tính ảnh hưởng trực tiếp đến gan và gây ra bệnh này. Với những quy luật như sau:
Khi rượu chuyển hóa trong cơ thể, sản phẩm chuyển hóa của nó vừa có thể chế ngự sự chuyển hóa chất béo của nó vừa có thể chuyển hóa chất béo, làm cho chất béo không thể chuyển hóa trong gan nên tồn động trong đó, vừa có thể làm tăng sự tổng hợp chất béo, làm mỡ đọng nhiều hơn trong gan, từ đó làm cho tế bào gan sinh thoái hóa mỡ.
Rượu ức chế hoạt tính xúc tác của mỡ, làm cho khả năng phân giải của mỡ trong tế bào gan giảm dẫn đến tồn động mỡ.
Rượu có thể làm thiếu sự tổng hợp phospholipid, thiếu phospholipid sẽ làm thiếu sự tổng hợp lipoprotein, từ đó ảnh hưởng mỡ đến bài tiết, thoái hóa mỡ từ trong gan làm cho tế bào gan mỡ hóa.
Người uống rượu nhiều, có thể dẫn đến tổn hại quá trình oxy hóa phosphoryl và β- oxy hóa acid béo trong cơ thể, làm cho acid béo tự do trong tế bào gan và máu tăng. Acid béo tự do có độc tính tế bào rất mạnh, có thể dẫn đến sự thoái hóa mỡ trong tế bào gan
Uống rượu nhiều có thể dẫn đến hoạt hóa P450 trong microsom gan, làm cho ti lạp thể chứa nhiều triglyceride đi vào tế bào gan thúc đẩy hình thành gan nhiễm mỡ.
Gan nhiễm mỡ do béo phì:
Béo phì đơn thuần là do sự hấp thu năng lượng vào trong cơ thể nhiều hơn sự tiêu hao, dẫn đến thể trọng vượt quá mức bình thường. Để đánh giá về mức độ béo phì có thể dựa vào chỉ số thể trọng ( BMI)
Chỉ số thể trọng (BMI) (kg/m2 )= thể trọng (kg)/ chiều cao bình phương của cơ thể (m2)
Thể trọng mức bình thường : chỉ số thể trọng = 18 – 25
Thể trọng ở mức cao: chỉ số thể trọng = 25 – 30
Béo phì mức thấp: chỉ số thể trọng > 30
Béo phì mức trung bình: chỉ số thể trọng >35
Béo phì mức cao: chỉ số thể trọng >40
Gan nhiễm mỡ thường phổ biến ở bệnh béo phì và liên quan đến mức độ béo phì. Sự phân phối mỡ bất thường ở ổ bụng (trong bệnh béo phì nội tạng), là sự tăng tỉ lệ giữa vòng bụng và vòng mông, liên quan nhiều nhất đến mức độ thoái hoá mỡ . Gan nhiễm mỡ hiện diện ở 80% đến 90% ở những bệnh nhân mắc bệnh béo phì . Trong một nghiên cứu ở Italy cho thấy rằng béo phì là yếu tố nguy cơ thoái hoá mỡ cao hơn so với nghiện rượu, bởi vì tỉ lệ lưu hành của bệnh thoái hoá mỡ ở những người béo phì không uống rượu cao hơn 1,6 lần so với những người uống rượu nhưng không béo phì . Tỉ lệ lưu hành của bệnh thoái hoá mỡ tăng lên một cách rõ nét trong nhóm những người uống rượu béo phì. Bệnh viêm gan thoái hoá mỡ do rượu cũng là bệnh thường thấy có liên quan đến bệnh béo phị. Tiền căn không uống rượu nhiều hoặc không nghiện rượu cần thiết để phân biệt hai loại bệnh này. Bệnh tiểu đường và tăng triglyceride máu thường gặp ở những bệnh nhân này. Hầu hết các bệnh nhân không có triệu chứng, bệnh gan được phát hiện khi thấy chỉ số aminotransferase huyết thanh tăng. Các triệu chứng chính là mệt mỏi và cảm thấy khó chịu ở vùng thượng vị phải. Gan to được phát hiện ở 90% các trường hợp, nhưng hiếm khi thấy lách to. AST huyết thanh có khuynh hướng tăng cao hơn ALT, tỉ lệ của chúng không giúp phân biệt được bệnh này với gan nhiễm mỡ do rượu hoặc viêm gan do rượu. Ngược lại, ở bệnh viêm gan thoái hóa mỡ không do rượu, chỉ số ALT huyết thanh thường cao hơn chỉ số AST huyết thanh . Giảm trọng lượng bằng khẩu phần ăn hạn chế, chế độ ăn ít mỡ thường làm giảm tình trạng thâm nhiễm mỡ, cải thiện các triệu chứng, giảm triglyceride huyết thanh, và thỉnh thoảng cũng giúp làm giảm aminotransferase huyết thanh . Trong một nghiên cứu cho thấy bệnh béo phì ở những bệnh nhân không uống rượu có chỉ số aminotransferase tăng cao có 30% kết hợp với xơ hóa vách ngăn và 11% với bệnh xơ gan . Trong nghiên cứu theo dõi kéo dài trung bình 9,8 năm sau lần sinh thiết gan đầu tiên không thấy có sự tiến triển thành xơ gan ở những bệnh nhân gan nhiễm mỡ không có hiện tượng viêm nhiễm hoặc xơ hóa . Ngược lại, bệnh viêm gan thoái hoá mỡ không do rượu gây ra thường tiến triển chậm để cuối cùng trở thành xơ gan .
Cơ chế sinh bệnh học chính xác của gan nhiễm mỡ ở bệnh béo phì vẫn còn đang được tìm hiểu. Sự tăng tổng hợp acid béo và altered partition là những nguyên nhân chính gây nên sự tăng tiết lipoprotein giàu triglyceride có liên quan đến di truyền ở chuột béo phì . Khối lượng mô mỡ tăng lên cùng với tăng tạo ra acid béo và kháng insulin là cơ chế khác của bệnh . Sự rối loạn chức năng của tế bào Kupffer, được tìm thấy ở chuột Zucker tăng lipid máu tiểu đường béo phì những không thấy trên những chuột Zucker bình thường, có thể đóng một vai trò trong việc thoái hoá mỡ bằng cách cho phép chuỗi cytokines kéo dài, ví dụ như yếu tố huỷ khối u a (TNF- α ), đáp ứng với nội độc tố .
Gan nhiễm mỡ do bệnh tiểu đường
Bệnh tiểu đường là một hội chứng mà đường trong máu cao kéo dài. Nguyên nhân là do thiếu insulin hoặc tế bào đích của insulin hoạt động bất thường, làm rối loạn sự chuyển hóa đường, protein và mỡ trong cơ thể sẽ phát sinh bệnh tiểu đường.
Sau khi bị bệnh tiểu đường, có thể xuất hiện những vấn đề như: rối loạn chuyển hóa, rối loạn tổng hợp lipoprotein và bài tiết insulin không đủ…đây là những nguyên nhân dẫn đên gan nhiễm mỡ.
Đặc tính của gan nhiễm mỡ do bệnh tiểu đường chủ yếu là do lipid trong tổ chức mô chứa lipid gia tăng giải phóng một lượng lớn acid béo tự do ở gan dẫn đến tổng hợp và tồn trữ lượng lớn triglyceride trong gan, hình thành gan nhiễm mỡ.
Gan to ở bệnh nhân tiểu đường có thể do sự ứ đọng glycogen hay mỡ. Ở trẻ em bị bệnh tiểu đường type I không kiểm soát được, sự ứ đọng glycogen nhiều hơn là ứ đọng mỡ là nguyên nhân chính làm cho gan to và chỉ số aminotransferase tăng. Trong những trường hợp này, giải quyết gan to cùng với việc kiểm soát việc tăng đường huyết . Bệnh gan nhiễm mỡ ít phổ biến ở những bệnh nhân tiểu đường type I nhưng rất thường gặp ở bệnh nhân tiểu đường type II, khoảng một nữa các trường hợp. Nguyên nhân gây ra thâm nhiễm mỡ ở gan ở những bệnh nhân tiểu đường type I là tăng sự giải phóng acid béo từ các mô mỡ thứ cấp thành đường huyết và sự thiếu hụt nồng độ insulin. Ơ’ những bệnh nhân tiểu đường type II, nguyên nhân gây ra tình trạng thâm nhiễm mỡ là do tăng chất béo và đường trong khẩu phần ăn và sự tăng chuyển hoá đối với các acid béo. Sự biến mất của DNA của ti lạp thể tế bào gan được tìm thấy trong cơ và mẫu sinh thiết gan ở những bệnh nhân tiểu đường type II . Phát hiện này gợi ý rằng chức năng của ti lạp thể bị hư hỏng có thể là suy kém sự oxi hoá acid béo và góp phần gây ra thoái hoá mỡ ở gan. Gan nhiễm mỡ được cải thiện ở những bệnh nhân tiểu đường type II sau khi loại bỏ lượng mỡ và carbonhydrate dư thừa trong khẩu phần ăn và giảm trọng lượng cơ thể. Bệnh béo phì và tiểu đường có vẻ là những yếu tố nguy cơ cho bệnh xơ gan không nguồn gốc. Trong một nghiên cứu bệnh chứng , tỉ lệ lưu hành của bệnh béo phì vàtiểu đường type II là 55% và 47% số những bệnh nhân xơ gan không nguyên nhân. Còn ở những bệnh nhân bị xơ gan đã xác định được nguyên nhân thì tỉ lệ trên là 24% và 22%. Số bệnh nhân béo phì lẫn tiểu đường type II chiếm 23% số bệnh nhân xơ gan không rõ nguyên nhân. Còn trong nhóm bệnh nhân xơ gan có nguyên nhân rõ ràng thì tỉ lệ này chiếm 5%.
Gan nhiễm mỡ do tăng lipid máu
Lượng lipid trong máu tăng cao so với mức bình thường, trong máu lipid gồm bốn loại : cholesterol toàn phần, glyceride, phospholipid, và các acid béo. Gan là nơi chuyển hóa lipid, khi lượng máu trong mỡ cao thì vượt quá khả năng chuyển hóa của gan, hoặc các khâu chuyển hóa mỡ khác xảy ra sự cố, thì mỡ trong máu sẽ tồn đọng trong gan, làm gan nhiễm mỡ. Những người có lượng lipid tăng cao, nếu mức enzyme xúc tác trong huyết thanh tăng cao, nên cảnh giác với gan nhiễm mỡ. Và cũng cần phải nói rằng, khi bị mắc gan nhiễm mỡ, khả năng chuyển hóa mỡ trong gan sẽ giảm xuống, sẽ làm cho lượng máu ứ đọng trong máu. Có một cuộc điều tra phát hiện rằng, cholesterol và triglyceride huyết thanh của những người gan nhiễm mỡ cao hơn những người không bị gan nhiễm mỡ.
Gan nhiễm mỡ do thiếu hoặc suy dinh dưỡng
Lượng đường thấp, protein thấp, hấp thu dinh dưỡng không đủ, dinh dưỡng cung cấp không đều… Sự thiếu hụt của những chất dinh dưỡng này dẫn đến chuyển hóa chất béo trong gan hoặc chức năng của acid béo giảm, làm cho mỡ và acid béo lắng đọng trong gan làm gan nhiễm mỡ.
Cơ chế phát sinh là:
Cơ thể thường ở trong trạng thái đói khát lâu ngày sẽ dẫn đến lượng đường trong máu quá thấp, chức năng kích thích hệ thần kinh giao cảm cao, làm cho phân giải thành năng lượng cung cấp cho cơ thể. Khi phân giải mỡ, lượng acid béo đi vào dịch mỡ quá nhiều, làm cho acid béo tự do trong máu tăng, dẫn đến tích trữ mỡ trong gan.
Cơ thể thiếu protein trong thời gian dài sẽ làm trở ngại sự hình thành của apoprotein, mỡ trong máu không thể chuyển hóa kịp thời, dẫn đến mỡ trong máu tăng, hình thành gan nhiễm mỡ
Thiếu dinh dưỡng không những làm thiếu hụt lượng đường , thiếu protein mà còn thiếu các chất dinh dưỡng khác như vitamin, muối vô cơ… Sự thiếu hụt này làm trở ngại cho sự chuyển hóa chất béo, tạo thành gan nhiễm mỡ.
Cung cấp dinh dưỡng không đều làm thiếu hụt hàm lượng acid amin của protein vận chuyển mỡ. Khi protein vận chuyển mỡ giảm, sẽ không thể kịp thời di chuyển triglyceride trong tế bào gan, làm cho nồng độ đó tăng, dẫn đến gan nhiễm mỡ.
Gan nhiễm mỡ và xơ hoá nhẹ xung quanh tĩnh mạch cửa xảy ra ở trẻ em bị hội chứng Kwashiorkor (hội chứng thiếu hụt dinh dưỡng nghiêm trọng ở trẻ em) . Gan nhiễm mỡ có thể hồi phục trở về bình thường với một chế độ dinh dưỡng giàu protein Sau chiến tranh thế giới thứ II, không tìm thấy bằng chứng về mô học của gan nhiễm mỡ, hoại tử hay xơ gan ở những thường dân thiếu ăn . Sự thâm nhiễm mỡ do kwashiorkor và ở những thú vật được nuôi với chế độ dinh dưỡng ít protein được khu trú chủ yếu ở vùng quanh tĩnh mạch cửa. Đặc điểm này được dùng để phân biệt Kwashiorkor với gan nhiễm mỡ do rượu, trong đó sự thâm nhiễm chủ yếu ở tiểu thuỳ trung tâm. Những động vật bị thiếu hụt protein-năng lượng có sự giảm tổng hợp protein ởgan . Các kết quả thực nghiệm với khỉ rhesus cho thấy có sự giảm tiết xuất triglycerides ở gan . Cơ chế thích hợp nhất của tình trạng thâm nhiễm mỡ ở gan là sự giảm tổng hợp lipoprotein, và kết quả là giảm bài xuất lipid ra khỏi gan. Vi khuẩn phát triển quá mức sản sinh ra các nội độc tố, kéo theo là sự thương tổn ti lạp thể dẫn đến sự peroxide lipid, cũng được xem như là cơ chế của gan nhiễm mỡ ở bệnh nhân thiếu hụt protein-năng lượng .
DINH DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH:
Như đã trình bày ở trên, có rất nhiều dạng gan nhiễm mỡ với những nguyên nhân khác nhau. Cách điều trị cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên đối với những người bệnh gan nói chung và bệnh gan nhiễm mỡ nói riêng vấn đề về dinh dưỡng (ăn uống) chiếm một vai trò khá quan trọng trong điều trị.
Nguyên Tắc Chung Về Dinh Dưỡng Trong Bệnh Gan
1. Bảo vệ tế bào nhu mô gan là điều phải quan tâm hàng đầu trong các bệnh gan mật để bảo tồn chức năng gan. Do vậy cần một chế độ ăn hợp lí về chất đủ về lượng.
2. Tăng dinh dưỡng bằng Cacbonhydrat để khôi phục năng lượng. Để đảm bảo kho dự trữ Glycogen cho đủ protein nhằm đảm bảo tác dụng bảo vệ tổ chức gan. Bình thường một phần gluxit của chế độ ăn được dự trữ trong gan dưới hình thức glycogen. Chức năng chuyển hóa và dự trữ của glycogen rất quan trọng vì nó làm cho gan đảm nhiệm được vai trò giải độc. Khi gan bị tổn thương thì glycogen giảm đi. Do đó chế độ ăn phải có nhiều gluxit để gan tạo ra được nhiều glycogen. Mặt khác nó còn bảo vệ cho gan khỏi bị thoái hóa mỡ.
3. Hạn chế mỡ và thức ăn béo: Khi tế bào gan bị tổn thường thì lập tức. bào tương của nó sinh ra NHỮNG GIỌT MỠ CÓ THỂ LÀM HỦY HOẠI TẾ BÀO. Đó chính là hiện tượng thoái hóa mỡ của gan. Do đó chế độ ăn phải hạn chế chất béo.
4. Ðủ vitamin, nhất là phức hợp nhóm B, Vitamin C, K... nên cung cấp đủ lượng vitamin cần cho một ngày. Ở người bệnh gan có thể mất khoáng và vitamin dẫn tới chứng loãng xương, quáng gà nếu lượng vitamin và khoáng quá thấp. Do đó nên ăn nhiều loại thức ăn để tránh thiếu hụt.
Ở người bệnh gan ,chất lỏng có thể dự trữ ở dạ dày gọi là dịch(ascites). Khi đó phải hạn chế lượng muối tiêu hóa.
Những gợi ý để giảm lượng muối :
1. Không dùng thêm muối trong nấu và ăn uống.
2. Chọn thức ăn có ít muối (thức ăn có lượng muối duới 150 mg per 100g cung cấp là lý tưởng
3. Tính toán lại lượng muối cần dùng: kiểm tra lại thông tin dinh dưởng để xác định chính xác lượng muối cần dùng (dưới 2000 mg một ngày là lý tường ) có trường hợp là dưới 1400 mg một ngày, các thức ăn có 150 mg per 100g cung cấp nên hạn chế.
4. Tăng protein quí, gia trị sinh học cao, đủ các acid amin cơ bản nhằm ngăn chặn nhiễm mỡ ở gan, thoái hóa tế bào gan và tạo điều kiện tái tạo các mô.
Để tăng năng lượng và protein cung cấp nên:
Ăn thành nhiều bữa nhỏ từ 6-8 bữa sẽ cung cấp nhiều năng lượng và protein hơn so với ăn 3 bữa chính và tốt cho người mau đói cũng như có cảm giác chán ăn.
Sữa là thức uống có nhiều protein và năng lượng. Để tăng thêm năng lượng và protein nên trộn thêm nhiều thành phần như kem hay nhiều muì vị.
Dùng dầu trong nấu nuớng và trong các món salad
Năng lượng nghỉ tăng thêm 20-25% so vơí năng lượng nghỉ tính theo phương trình HARRIS-BENEDICT.
Ở người bệnh gan mãn tính nên cung cấp từ protein nên 1-1.2kcal/kg một ngày và năng lượng không từ protein nên 25-35kcal/kg một ngày.Với người bệnh gan mãn tính kèm suy dinh dưởng thì protein cung cấp nên tăng 1.5kcal/kg một ngày và năng lượng cung cấp từ nguồn khác là 35-40kcal/kg một ngày. Khẩu phần protein phải giảm xuống trong khoảng 0.5-1.5 g/kg thể trọng/ngày ở những người có biểu hiện bệnh lý não giai đoạn I hoặc II, và giảm tới 0.5 g/kg thể trọng/ngày ở các trường hợp bệnh lý não giai đoạn III hoặc IV
(Khi nồng độ của các độc chất trong máu đạt đến một mức nhất định thì chức năng não sẽ bị ảnh hưởng. Khởi đầu, bệnh nhân bị run tay (dấu run vẫy), thay đổi mức độ tỉnh táo, rối loạn sự phối hợp vận động. Khi não có biểu hiện nhiễm độc gọi là bệnh lý não do gan. Và chất độc không được khử càng nhiều sẽ dẫn đến hôn mê gan.)
Nhu cầu dinh dưỡng chung cho người bệnh gan nhiễm mỡ chung: (bạn sẽ nhận thấy nó khá giống với nhu cầu dinh dưỡng cho người bình thường)
60 –70% carbohydrate
20 – 30% protein – lấy từ protein thịt động vật hoặc protein thực vật
10 – 20% chất béo không no
Cần 1.000 đến 1.500 mg natri mỗi ngày. (Trong tất cả thức ăn)
Tránh bổ sung quá nhiều vitamin hoặc khoáng chất đặc biệt là vitamin A, vitamin B3 và sắt.
Không uống rượu.
Tránh các thực phẩm chế biến
Ăn nhiều rau quả, trái cây
Tránh tiêu thụ quá nhiều cafein không quá 1-3 ly cafein trong đồ uống mỗi ngày.
Vitamin D và bổ sung canxi.
Vitamin C
Chất chống oxy hóa như vitamin E hoặc COQ 10
Tác dụng vitamin trong điền trị gan nhiễm mỡ :vitamin A và carotene có thể phòng tri gan nhiểm mỡ bị xơ hoá.Nhóm vitamin B gồm : vitamin B2, B6, B12 và acotinic acid có thể phòng trị gan nhiễm mỡ thoái hoá.Vitamin C có thể tăng cường giải độc cho thêm cho gan,caỉ thiện chức năng chuyễn hoá cuả gan.Vitamin E cũng có thể tham gia vào sự chuyển hoá chất béo cuả gan và có tác dụng bảo vệ đối với tế bào gan.
Ngược lại,gan cũng tham gia dự trữ chuyển hoá vitamin .Người bệnh gan nhiễm mỡ sẽ suy sự hấp thu và chức năng chuyển hoá vitamin từ đó ảnh hưởng chức năng cuả các hệ thống khác trong cơ thể ngừơi.
Đó là nhu cầu chung. Đối với mỗi loại gan nhiễm mỡ sẽ có những yêu cầu riêng.
Do rượu:
Cai rượu là biện pháp điều trị cơ bản, quan trọng nhất.Gan nhiễm mỡ đơn thuần sau khi cai rượu 1 tháng có thể có chuyển biến tốt. Bên cạnh đó, cần duy trì điều trị, đa số những người bị gan nhiễm mỡ do rượu có sự ăn uống không điều độ dẫn đến thiếu sự cân bằng nitơ âm và vitamin. Chủ yếu thưc ăn có hàm lượng protein cao và lượng mỡ thấp, bổ sung đầy đủ vitamin và các nguyên tố vi lượng. Trong lâm sang, có thể tiêm tĩnh mạch ít vitamin, acid amin