Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường trung học cơ sở, cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vật lí cơ bản, bước đầu hình thành ở học sinh những kỹ năng và thói quen làm việc khoa học.
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm nên việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm, quan sát thí nghiệm, giải thích hiện tượng, thảo luận nhóm, sử dụng hình ảnh trực quan, đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh trả lời là không thể thiếu được trong quá trình học tập bộ môn. Do đó việc hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức, hình thành kỹ năng quan sát, hướng dẫn các em suy đoán các hiện tượng vật lí dần hình thành từng bước trong mỗi bài học cụ thể. Thông qua việc tiến hành thí nghiệm, học sinh tiếp nhận được kiến thức một cách dễ dàng, hiểu sâu hơn về các hiện tượng vật lí.
Muốn hoàn thành tốt tiết dạy trên lớp, chúng ta không thể không sử dụng thiết bị dạy học làm thí nghiệm chứng minh trên lớp, đặt câu hỏi, sử dụng phiếu học tập Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú học tập môn Vật lí, giải thích được một số hiện tượng vật lí thường xảy ra trong cuộc sống thường ngày? Chính vì lí do đó tôi chọn đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6”
22 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2110 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu lỗi, hỏng, hoặc gửi sai tài liệu
Liên hệ ngay yahoo : kato_kid2204 để đảm bảo quyền lợi của mình
Bạn sẽ nhận lại tài liệu mình sau 2h
BAÛN TOÙM TAÉT SAÙNG KIEÁN KINH NGHIEÄM
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN VẬT LÍ 6
Họ và tên tác giả: DƯƠNG THỊ ÁNH HỒNG
Đơn vị công tác: Trường trung học cơ sở Thị Trấn
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Môn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường trung học cơ sở, cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vật lí cơ bản, bước đầu hình thành ở học sinh những kỹ năng và thói quen làm việc khoa học.
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm nên việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm, quan sát thí nghiệm, giải thích hiện tượng, thảo luận nhóm, sử dụng hình ảnh trực quan, đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh trả lời…là không thể thiếu được trong quá trình học tập bộ môn. Do đó việc hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức, hình thành kỹ năng quan sát, hướng dẫn các em suy đoán các hiện tượng vật lí dần hình thành từng bước trong mỗi bài học cụ thể. Thông qua việc tiến hành thí nghiệm, học sinh tiếp nhận được kiến thức một cách dễ dàng, hiểu sâu hơn về các hiện tượng vật lí.
Muốn hoàn thành tốt tiết dạy trên lớp, chúng ta không thể không sử dụng thiết bị dạy học làm thí nghiệm chứng minh trên lớp, đặt câu hỏi, sử dụng phiếu học tập…Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú học tập môn Vật lí, giải thích được một số hiện tượng vật lí thường xảy ra trong cuộc sống thường ngày? Chính vì lí do đó tôi chọn đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6”
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
-Học sinh lớp 6 trường THCS Thị Trấn.
-Các dạng bài tập mẫu hướng dẫn học sinh cách thực hiện.
-Thông qua việc thực hiện nội dung đề tài, kiểm tra, so sánh kết quả học tập của học sinh qua hai đợt: Giữa học kì I và học kì I.
III. ĐỀ TÀI ĐƯA RA GIẢI PHÁP MỚI:
-Hướng dẫn học sinh quan sát thí nghiệm, độc lập suy nghĩ trả lời các câu hỏi của giáo viên.
-Phát huy tính tích cực, tinh thần tự giác trong học tập của học sinh.
-Giúp học sinh yêu thích môn học, có tinh thần học hỏi ở thầy cô, bạn bè…
IV. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Qua sử dụng “Đổi mới phương pháp dạy học” học sinh học tập một cách tích cực hơn, hứng thú tìm tòi nội dung của bài học, từng bước nâng cao chất lượng học tập. Một số học sinh trung bình – yếu có sự tiến bộ hơn, giải thích được một số hiện tượng đơn giản dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
V. PHẠM VI ÁP DỤNG:
Đề tài được áp dụng cho tất cả các học sinh khối 6 của trường Trung học cơ sở Thị Trấn nhưng được triển khai và thực hiện cụ thể hơn ở lớp 6A5
Thị Trấn, ngày 3 tháng 4 năm 2010
Người thực hiện
DƯƠNG THỊ ÁNH HỒNG
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Phát sinh cùng với xã hội loài người, giáo dục biến đổi và phát triển cùng với sự biến đổi của xã hội. Ngay khi nước ta bước vào giai đoạn mới thì giáo dục cũng có những biến chuyển quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã xác định : "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Sự nghiệp giáo dục đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy trọng tâm của ngành giáo dục là nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, bồi dưỡng thế hệ trẻ có đủ phẩm chất và năng lực xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, xây dựng lực lượng lao động và đội ngũ trí thức lớn có kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật … đó là nhiệm vụ và niềm tự hào của nhà nước ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thành tựu của sự nghiệp giáo dục là niềm tự hào của các nhà giáo dục thuộc nhiều bậc học. Đặc biệt đối với bậc trung học cơ sở (THCS), vì đối tượng của bậc học này mang tính phức tạp.
Để đạt được những thành tựu khả quan đòi hỏi các nhà giáo dục phải uốn nắn giáo dục học sinh theo phong cách sư phạm. Muốn thế chúng ta phải có một phương pháp giảng dạy như thế nào cho hợp lý, phù hợp với từng đối tượng, đặc điểm của từng bộ môn, cụ thể là bộ môn Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng.
Người ta nói: "Trăm nghe không bằng một thấy" và "Học đi đôi với hành ". Vì thế sử dụng các hình ảnh trực quan, thí nghiệm chứng minh trên lớp, dùng phiếu học tập… là các phương pháp mà giáo viên dạy môn Vật lí thường sử dụng để truyền đạt kiến thức. Vậy, chúng ta cần phải đổi mới hình thức dạy và học như thế nào giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh nhất và hiệu quả nhất? Là một giáo viên của bậc Trung học cơ sở thì việc tìm hiểu và việc sử dụng sáng tạo đổi mới phương pháp trong giảng dạy bộ môn là rất cần thiết. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi đã đúc kết một số kinh nghiệm giúp học sinh học tập một cách tích cực và sáng tạo hơn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6” làm đề tài nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
-Mục tiêu đề tài hướng tới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tập của học sinh.
-Rèn luyện cho học sinh thực hiện thí nghiệm chứng minh trên lớp, sử dụng hình ảnh trực quan, làm phiếu học tập…trong việc học tập môn Vật lí 6
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu : Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6
- Khách thể : Học sinh khối 6 trường THCS Thị Trấn
IV.GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
-Đổi mới phương pháp trong dạy học môn Vật lí 6 có thể làm cho những em thích học tập môn Vật lí có hứng thú học tập.
-Có thể rèn luyện cho học sinh có được một cách học để tiếp thu bài nhanh nhất.
-Đổi mới phương pháp dạy học là dùng hình ảnh để minh họa trong từng bài học cụ thể, thí nghiệm chứng minh trên lớp,…
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
-Nghiên cứu lý luận về đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí
-Nghiên cứu thực tế việc đổi mới phương pháp trong dạy học Vật lí lớp 6 trường THCS Thị Trấn
-Từ thực tế trên đề xuất ý kiến về việc đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
-Nội dung : Tập trung nghiên cứu việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy học Vật lí lớp 6.
- Địa bàn nghiên cứu : Học sinh khối 6 trường THCS Thị Trấn - Châu Thành - Tây Ninh.
B.NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Luật giáo dục năm 2005 (điều 5) quy định “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực học tập, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Do đó, đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập...Từ đó học sinh dần hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Đó là điều kiện cần thiết cho bản thân học sinh và cho sự phát triển của xã hội.
Đổi mới phương pháp dạy học các môn học nói chung và môn Vật lý nói riêng ở trường THCS xuất phát từ các quan niệm sau:
-Mục tiêu của ngành giáo dục, trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh những tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được, mà phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo. Học sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì phẩm chất và năng lực của cá nhân càng sớm được hình thành phát triển và hoàn thiện. Tính năng động, sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, phải được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
-Trước đây, trong giảng dạy các môn học, người giáo viên chỉ chú trọng truyền đạt các tri thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập và nghiên cứu mang tính đặc thù của môn học đó (gọi là phương pháp bộ môn). Ngày nay, cùng với tri thức khoa học của môn học, giáo viên phải làm cho học sinh nắm vững và sử dụng các phương pháp bộ môn. Điều đó có ý nghĩa to lớn với nhiệm vụ học tập trước mắt và cả trong tương lai.
-Việc đổi mới phương pháp dạy học phải góp phần thực hiện sự phân hóa trong dạy học. Năng lực của học sinh trong một lớp học không hoàn toàn giống nhau, việc phân hóa tiến tới cá nhân hóa trong dạy học là xu hướng tất yếu để đảm bảo sự phát triển tối ưu cho mỗi học sinh.
-Mỗi môn học có các đặc trưng riêng, Vật lí học là môn koa học thực nghiệm. Đổi mới phương pháp phải xuất phát từ đặc trưng này của bộ môn.
Tóm lại, dạy học không chỉ là “dạy chữ” mà phải qua dạy chữ mà “dạy người”. Tất nhiên, hình thành và phát triển nhân cách không chỉ có nhà trường. Trong nhà trường cũng không chỉ có hoạt động dạy học, tuy nhiên dạy học là hoạt động chủ yếu.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
-Trong những năm thực hiện cải cách giáo dục chúng ta có nhiều cố gắng đổi mới và đa dạng hóa cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới nội dung giáo dục trong nhà trường. Tuy nhiên, về phương pháp giáo dục và dạy học thì chưa có sự quan tâm đầy đủ, phương pháp dạy học chưa được đổi mới tương xứng.
-Những năm gần đây, do nhiều tác động khách quan, phương pháp và chất lượng dạy học đã có sự phân hóa và đã có không ít giáo viên giỏi, học sinh giỏi. Ở những giáo viên này phương pháp dạy học có nhiều cải tiến theo hướng hiên đại. Về cơ bản giảng dạy bộ môn Vật lí ở trường THCS hiện nay, trình độ chung của học sinh còn thấp, học sinh chưa biết vận dụng linh hoạt các kiến thức đã được học vào cuộc sống hoặc chỉ vận dụng kiến thức một cách đơn giản, máy móc…
III. NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
1. Các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Vật lí 6:
Trong quá trình giảng dạy, cùng với việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy học trong trường THCS, bộ môn Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng phải thực hiện kết hợp một số giải pháp sau đây:
1.1/ Dạy học hợp tác theo nhóm:
Dạy học hợp tác theo nhóm là một thuật ngữ để chỉ cách dạy học trong đó học sinh trong lớp được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp, được giao nhiệm vụ và được khuyến khích thảo luận, hướng dẫn hợp tác làm việc với nhau giữa các thành viên để cùng đạt được kết quả chung là hoàn thành nhiệm vụ của cả nhóm.
Hoạt động dạy học hợp tác theo nhóm thường bao gồm các bước:
Bước 1: Làm chung cho cả lớp
Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức; tổ chức nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Bước 2: Hoạt động nhóm
Từng nhóm làm việc riêng trong không khí thi đua với các nhóm khác. Thành viên trong mỗi nhóm trao đổi ý kiến , phân công nhóm sau đó từng thành viên làm việc theo sự phân công đó và có thể bàn bạc, trao đổi với nhau khi cần thiết. Giáo viên giám sát sự hoạt động của nhóm và của từng cá nhân học sinh.
Bước 3:Thảo luận, tổng kết trước cả lớp
Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả, giáo viên tổ chức cho học sinh ở các nhóm khác nhận xét, đánh giá và giáo viên xác nhận lại khi cần thiết. Giáo viên tổng kết, chốt lại những điểm quan trọng sau khi các nhóm đã báo cáo xong. Cuối cùng giáo viên động viên, khen ngợi các nhóm cũng như các cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán những cá nhân và nhóm chưa hoạt động tích cực.
Trong quá trình thực hiện dạy học hợp tác theo nhóm, giáo viên cần làm các công việc sau:
*Tổ chức nhóm:
+Quy mô nhóm:
Mỗi nhóm nên có từ 3 đến 6 học sinh. Nhóm 3 đến 4 học sinh là nhóm nhỏ, thích hợp với các hoạt động giải bài tập rèn luyện kĩ năng hay thực hành trong lớp. Với nhóm nhỏ, các em thảo luận, đề ra được quyết định nhanh hơn, giáo viên quản lí các thành viên trong nhóm dễ dàng hơn, nhưng việc bao quát các nhóm phức tạp hơn, việc theo dõi hoạt động và thời gian để các nhóm trình bày kết quả phải nhiều hơn vì có nhiều nhóm hơn.
Nhóm từ 5 đến 6 học sinh là nhóm lớn, chủ yếu thích hợp với những công cụ lớn, phức tạp như thực hành thí nghiệm. Các nhóm lớn dễ tạo cho học sinh cảm giác vui, hồ hởi và niềm tin vào sự thành công. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm là phức tạp hơn, khó đạt được sự đồng thuận hơn. Giáo viên khó khăn hơn trong việc quản lí các thành viên trong nhóm lớn nhưng dễ dàng bao quát chung các nhóm hơn và thời gian để các nhóm trình bày kết quả cũng ít hơn.
+Phân công nhiệm vụ trong nhóm:
Trong các nhóm thường có các thành phần: Trưởng nhóm, thư kí nhóm, báo cáo viên và các thành viên còn lại. Trưởng nhóm chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều khiển nhóm, thư kí có trách nhiệm ghi chép lại các kết quả công việc của nhóm. Các thành viên còn lại trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào hoạt động của nhóm theo sự phân công của nhóm trưởng.
Sự phân công nhiệm vụ trong nhóm cần linh hoạt, không phải luôn cần có đầy đủ các thành phần như trên. Tuy nhiên một nhóm nhất thiết nên có trưởng nhóm để triển khai hoạt động của nhóm. Các thành phần trong một nhóm cũng cần thực hiện luân phiên, các em trong nhóm lần lượt trao đổi với nhau thực hiện các vai trò đó để đều có cơ hội rèn luyện về mọi mặt như nhau.
*Các kiểu chia nhóm:
Chia nhóm theo trình độ học sinh. Khi đó, học sinh trong lớp được chia vào các nhóm thường theo một số kiểu sau: Nhóm nhiều trình độ (trong nhóm có cả học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu); nhóm cùng trình độ (các em học sinh trong một nhóm có khả năng học tập tương đối như nhau). Với nhóm nhiều trình độ các em học yếu có cơ hội học hỏi các em học khá, giỏi. Ngoài những cách chia nói trên, vẫn có thể có những cách chia nhóm dựa trên sự tương đồng với dụng cụ thực hành thí nghiệm, đảm bảo đầy đủ các dụng cụ cho các nhóm thực hành có hiệu quả.
*Giao nhiệm vụ cho nhóm:
Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm thực hiện. Sau khi giao nhiệm vụ cho các nhóm, giáo viên cần kiểm tra xem từng nhóm, từng học sinh đã hiểu được nhiệm vụ của mình chưa. Có thể thực hiện đều này bằng cách hỏi một vài nhóm trưởng cũng như một vài em khác, yêu cầu các em đứng lên nói rõ nhiệm vụ của mình. Giáo viên cũng cần quy định rõ thời gian yêu cầu phải hoàn thành hoạt động nhóm, thường với mọi hoạt động, thời gian từ 5 đến 7 phút.
*Giáo viên quản lí hoạt động nhóm:
Trong khi các nhóm hoạt động, giáo viên cần bao quát, chỉ đạo học sinh theo các chú ý sau:
-Quan sát tất cả các nhóm, phát hiện và hỗ trợ các nhóm có khó khăn thông qua các câu hỏi dẫn dắt, các hướng dẫn thích hợp.
-Phát hiện các nhóm làm việc chưa tích cực, mất trật tự…để nhắc nhở, uốn nắn. Các nhóm tích cực khuyến khích, động viên kịp thời. Dù là khuyến khích hay nhắc nhở học sinh, cử chỉ của giáo viên phải thể hiện thái độ thân mật, hợp tác, tạo niềm tin cho học sinh.
*Tổ chức hoạt động thảo luận, tổng kết trước toàn lớp:
Khi các nhóm đã hoàn thành hoạt động, giáo viên yêu cầu mỗi nhóm cử đại diện lên trình bày trước toàn lớp và nêu rõ quy định về cách trình bày như đứng tại chỗ hay lên bảng, chỉ diễn đạt bằng lời nói hay kết hợp với viết bảng…Sau khi giáo viên yêu cầu một vài nhóm lên trình bày, các nhóm khác quan sát, nhận xét, bổ sung. Sự nhận xét, bổ sung lẫn nhau giữa các nhóm là rất quan trọng, nó thể hiện sự tương tác giữa các nhóm và sự gắn kết của cả lớp trong mục tiêu chung của nhiệm vụ học tập. Sau khi mỗi nhóm đã trình bày và có sự nhận xét, bổ sung của các học sinh ngoài nhóm, giáo viên đưa ra ý kiến của mình, thể thức hóa kết quả của mỗi nhóm trước cả lớp.
Cuối cùng, sau khi các nhóm được chỉ định đều đã trình bày xong, giáo viên tổng kết, chốt lại những điểm quan trọng trong kết quả của tất cả các nhóm và nhận xét, động viên, khen ngợi các nhóm hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán những khiếm khuyết đã mắc phải của một số nhóm hay cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động nhóm.
1.2/ Sử dụng phương pháp trực quan trong tiết học:
Phương pháp trực quan hay nói chính xác hơn là nhóm các phương pháp sử dụng các vật thực, mô hình, tranh vẽ… để minh họa cho các bài học nhằm cụ thể hóa cái nhìn trừu tượng trong đối tượng và hiện tượng giúp học sinh khắc phục khó khăn ban đầu, tiếp thu và vận dụng được các kiến thức một cách hiệu quả, nhanh chóng.
Phương pháp trực quan thường được sử dụng trong việc dạy và học môn Vật lí. Nhất là đối với bậc trung học cơ sở, giáo viên cần sử dụng các vật thật, mô hình hay tranh vẽ để minh hoạ cho các bài học thêm sinh động.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 5 “ Khối lượng – đo khối lượng” trong chương trình Vật lí 6, để giúp học sinh hiểu thêm một số dụng cụ dùng để đo khối lượng thường dùng trong đời sống, giáo viên cần dùng một số tranh vẽ sau:
Cân y tế Cân tạ Cân đòn Cân đồng hồ
Ví dụ 2: Bài 13: “Máy cơ đơn giản”. khi dạy bài học này, giáo viên cần đưa một số tranh ảnh minh họa cho học sinh thấy được một số máy cơ đơn giản thường dùng là mặt phẳng nghiêng, đòn bẩy và ròng rọc.
1.3/ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là cách thầy tổ chức tạo ra một tình huống hấp dẫn gợi sự tìm hiểu của học sinh, gợi ra những vướng mắc mà học sinh chưa giải đáp ngay được, nhưng có liên hệ với tri thức đã biết, khiến họ thấy có triển vọng tự giải đáp được nếu tích cực suy nghĩ.
Trong dạy học và giải quyết vấn đề, thầy giáo tạo ra những tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức mới, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục tiêu học tập khác.
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thường có những đặc điểm sau đây:
-Học sinh được đặt vào tình huống gợi vấn đề chứ không phải là được thông báo tri thức dưới dạng có sẵn.
Học sinh hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động tri thức và khả năng của mình để phát hiện và giải quyết vấn đề chứ không phải là nghe thầy giảng một cách thụ động.
-Mục tiêu dạy học không chỉ là làm cho học sinh lĩnh hội kết quả của quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, mà còn ở chỗ làm cho học sinh phát triển khả năng tiến hành khám phá và lĩnh hội tri thức mới.
Trong dạy học và phát hiện vấn đề là việc điều khiển học sinh tự thực hiện hoặc hòa nhập vào quá trình nghiên cứu vấn đề, quá trình này có thể chia làm các bước sau:
Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề
-Phát hiện vấn đề từ một tình huống gợi vấn đề thường do thầy tạo ra. Học sinh có thể liên tưởng, dự đoán, suy nghĩ, tìm tòi tình huống gợi vấn đề.
-Giải thích và chính xác hóa tình huống khi cần thiết để hiểu đúng vấn đề được đặt ra.
-Phát hiện vấn đề và đặt mục tiêu giải quyết vấn đề đó.
Bước 2:Tìm giải pháp
-Học sinh tìm một cách giải quyết vấn đề, cần làm rõ mối liên hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm. Trong Vật lí thường liên tưởng tới những khái niệm, đặc điểm hoặc tính chất thích hợp.
-Tổ chức thu thập dữ liệu, học sinh tiến hành suy luận tìm ra hướng giải quyết vần đề một cách hiệu quả.
Bước 3: Trình bày giải pháp
Khi giải quyết được vấn đề đặt ra, học sinh trình bày lại toàn bộ từ việc phát biểu vấn đề cho tới giải pháp. Nếu vấn đề là một đề bài cho sẵn thì có thể không cần phát biểu lại vấn đề. Trong khi trình bày, học sinh phải trình bày rõ ràng, mạch lạc, logic.
Ví dụ: Biết 10dm3 có khối lượng 15kg
a) Tính thể tích của 1 tấn cát.
b) Tính trọng lượng của một đóng cát 3m3
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Thực hiện lời giải
Giáo viên đặt một số câu hỏi dẫn dắt học sinh làm bài tập theo trình tự các bước sau:
Bước 1: Phát hiện và thâm nhập vấn đề
Giáo viên hướng dẫn câu a của bài toán
Em hãy cho biết đề bài đã cho những đại lượng nào?
+HS: Đề bài cho biết khối lượng và thể tích của cát.
-GV: Bài toán yêu cầu tính những đại lượng nào?
+HS: Bài toán yêu cầu tính thể tích và trọng lượng của cát
-GV yêu cầu học sinh tóm tắt đề bài, giáo viên theo dõi
Bước 2:Tìm giải pháp
-GV: Bài toàn cho biết thể tích và khối lượng của cát, ta tính được đại lượng liên quan nào?
+HS: Ta tính được khối lượng riêng của cát
-GV: Em hãy cho biết công thức tính khối lượng riêng?
+HS: Khối lượng riêng được xác định theo công thức
-GV: Sau khi tính được khối lượng riêng của cát, các em tính thể tích của cát dựa vào công thức biến đổi
với m = 1tấn = 1000kg
Giáo viên hướng dẫn câu b của bài toán
-GV: Em hãy cho biết công thức tính trọng lượng của cát?
+HS: Công thức tính trọng lượng là
P = 10m
-GV: Muốn tính được trọng lượng của một đóng cát có thể tích 3m3, trước hết ta phải tính được khối lượng của cát. Vậy khối lượng của cát được tính theo công thứ