Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã và đang là một nguồn thu quan trọng, tập trung của ngân sách nhà nước, là phương tiện vật chất để nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng quản lý của mình. Trong những năm qua chính sách và cơ chế quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và đạt được những kết quả quan trọng cả về yêu cầu thu ngân sách và quản lý điều tiết vĩ mô trong quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nước ta nói chung, quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan nói riêng bộc lộ nhiều bất cập như: hệ thống chính sách và cơ chế quản lý chưa đồng bộ và chưa theo kịp với sự phát triển của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ngày càng gia tăng; nạn buôn lậu và gian lận thương mại để trốn thuế còn tồn tại phổ biến, tình trạng chiếm dụng tiền thuế gây nợ đọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lớn và kéo dài chưa được xử lý triệt để; hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa được chú trọng đúng mức gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước đòi hỏi bức xúc của thực tế, đồng thời là người trực tiếp tham gia xây dựng chính sách và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan, tác giả lựa chọn đề tài "Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế
117 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã và đang là một nguồn thu quan trọng, tập trung của ngân sách nhà nước, là phương tiện vật chất để nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng quản lý của mình. Trong những năm qua chính sách và cơ chế quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và đạt được những kết quả quan trọng cả về yêu cầu thu ngân sách và quản lý điều tiết vĩ mô trong quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nước ta nói chung, quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan nói riêng bộc lộ nhiều bất cập như: hệ thống chính sách và cơ chế quản lý chưa đồng bộ và chưa theo kịp với sự phát triển của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ngày càng gia tăng; nạn buôn lậu và gian lận thương mại để trốn thuế còn tồn tại phổ biến, tình trạng chiếm dụng tiền thuế gây nợ đọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lớn và kéo dài chưa được xử lý triệt để; hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa được chú trọng đúng mức gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước đòi hỏi bức xúc của thực tế, đồng thời là người trực tiếp tham gia xây dựng chính sách và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan, tác giả lựa chọn đề tài "Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2.Tình hình nghiên cứu
Từ khi thực hiện cải cách thuế đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức quản lý thuế. Các công trình nghiên cứu tập trung vào hai nhóm sau:
- Nhóm quản lý thu thuế đối với một hoặc một vài sắc thuế trên địa bàn tỉnh, thành phố như: Đề tài "Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá", Luận văn Thạc sỹ Kinh tế của Mai Đình Tú; đề tài "Công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thành phố Hà nội", Luận văn Thạc sỹ của Vũ Thị Toản; đề tài:" Các giải pháp tăng cường quản lý thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Danh Hưng .
- Nhóm chống thất thu thuế như: đề tài "Một số vấn đề sử dụng công cụ thuế và chống thất thu thuế ở các địa bàn tỉnh biên giới phía Bắc, Luận văn Thạc sỹ của Đặng Hồng Trung; đề tài "Thất thu thuế và giải pháp chống thất thu thuế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ", Luận văn Thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn Duy Long; đề tài "Chống thất thu thuế trên địa bàn quận Đống Đa", Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Viết Tuấn; đề tài "Chống gian lận thuế giá trị gia tăng trên địa bàn Thành phố Hà nội" Luận văn Thạc sỹ của Viên Viết Hùng.
Ngoài ra, về nghiên cứu quản lý thu thuế nói chung có đề tài "Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế ở Việt Nam trong quá trình đổi mới", luận văn thạc sỹ kinh tế của Hoàng Đình Cơ.
Các đề tài trên có đề cập ở mức độ nhất định về quản lý thuế, chống thất thu thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu độc lập về đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của ngành Hải quan cũng chưa có công trình khoa học nào dưới dạng luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ về đề tài này được công bố.
Để thực hiện đề tài tác giả có kế thừa một số ý tưởng khoa học của các công trình đã công bố có liên quan nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, để đề xuất các giải pháp quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan được đặt trong tổng thể quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói chung.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và thông lệ quốc tế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nghiên cứu quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện nay ở nước ta.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan từ khi có luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đến nay.
- Thời gian khảo sát từ khi có Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (năm 1991), thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích sự việc trong sự biến động gắn với điều kiện lịch sử cụ thể; ngoài ra, các phương pháp chuyên ngành được sử dụng trong quá trình nghiên cứu như thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, tiếp cận hệ thống.
Luận văn kết hợp nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế và quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; tổng kết quá trình cải cách quản lý thu thuế của ngành Hải quan. Đồng thời, có kết hợp nêu kinh nghiệm các nước tiên tiến.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa có bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành Hải quan; tìm hiểu kinh nghiệm một số nước phát triển và rút ra bài học có thể tham khảo cho ngành Hải quan nước ta.
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, các dạng gian lận thương mại và đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngành Hải quan trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu làm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ
THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
* Khái niệm:
Đến nay chưa có một khái niệm chính thức nào về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tuy nhiên trên cơ sở nghiên cứu sự ra đời của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng như các quan niệm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, có thể khái quát thành khái niệm chung về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như sau: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một phần thu nhập được tạo ra từ các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước theo quy định của Pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
Từ khái niệm và sự ra đời của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho thấy, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng có những đặc điểm của thuế nói chung đó là:
Thứ nhất, mang tính quyền lực nhà nước; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có sự gắn bó mật thiết không thể tách rời với Nhà nước, Nhà nước cần có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để đáp ứng phần nào nhu cầu chi tiêu của mình; Nhà nước là người duy nhất có quyền đặt ra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu một mặt để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác qua đó để kiểm soát và điều tiết đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Thứ hai, mang tính pháp lý cao, là khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước mà không có sự bồi hoàn trực tiếp nào, việc nộp thuế được thể chế bằng pháp luật mà mọi pháp nhân và thể nhân phải tuân theo.
Thứ ba, chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội, điều đó được thể hiện ở chỗ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một phần của cải của xã hội, mức huy động thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vào ngân sách nhà nước phụ thuộc vào mức tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước đặt ra trong mỗi thời kỳ.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn có đặc điểm riêng là:
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới của một nước, kể cả hàng hoá đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa vào tiêu thụ trong nước.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu bởi vì thuế được cấu thành trong giá cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đó, Nhà nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của người tiêu dùng gián tiếp thông qua người cung cấp hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Trong điều kiện nền kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước từ các sắc thuế nội địa chưa đảm bảo, nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu lớn, thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước, bởi vì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nằm trong giá cả hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nên số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thu được tăng tỷ lệ thuận với quy mô tiêu dùng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của xã hội.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt đối tượng chịu thuế là người như thế nào (giàu hay nghèo), nếu tiêu dùng một loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu như nhau thì số thuế phải nộp cũng như nhau.
* Bản chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phản ánh bản chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên hai phương diện:
Về mặt kinh tế: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một phần của cải xã hội được tập trung vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, cơ sở kinh tế hay nền tảng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận thu nhập được tạo ra từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Do đó việc động viên thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải có giới hạn của nó, giới hạn đó không thể vượt quá một mức nhất định trong tổng số thu nhập được tạo ra, mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho ngân sách nhà nước và kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, ngược lại nếu thuế suất quy định quá cao so với thu nhập được tạo ra thì sẽ không khuyến khích kinh doanh chân chính nữa, do đó Nhà nước sẽ bị thất thu. Thực tế cho thấy, nếu qui định thuế suất quá cao thì đối tượng nộp thuế sẽ tìm cách để trốn thuế, lậu thuế và chi phí để chống trốn lậu thuế thường cao nhưng không mang lại kết quả mong muốn. Tuỳ theo tình hình thực tế để qui định mức thuế suất từ 0% lên đến một giới hạn nào đó sẽ đưa đến kết quả số thuế thu được sẽ tăng theo tỷ lệ thuận với tăng thuế suất, nếu thuế suất tăng vượt quá giới hạn cho phép thì kết quả sẽ ngược lại.
Trong trường hợp thuế suất quy định quá cao so với thu nhập được tạo ra, thì giải pháp duy nhất là phải hạ thấp thuế suất, đi đôi với việc tìm cách mở rộng diện thu thuế để bao quát hết nguồn thu, vừa đảm bảo tăng thu thuế vừa đảm bảo công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Về mặt xã hội: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và các pháp nhân, thể nhân tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một công cụ được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại, điều chỉnh các quan hệ phân phối, phân phối lại thu nhập xã hội giữa các tổ chức, cá nhân và Nhà nước do đó thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mang tính xã hội cao. Nghiên cứu bản chất xã hội của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giúp chúng ta quán triệt đầy đủ và sâu sắc yêu cầu trong việc hoạch định chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo rõ ràng, đơn giản, phù hợp với trình độ của cả người thu thuế và người nộp thuế. Việc tổ chức quản lý thu thuế phải đảm bảo tính công khai, dân chủ mới đem lại hiệu quả cao, nếu không thì dù chính sách thuế có hợp lý đến đâu cũng chỉ tồn tại trên giấy.
Nghiên cứu đặc điểm, bản chất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể rút ra một số kết luận sau:
- Việc động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải được tính toán khoa học, không được ấn định tuỳ tiện, mức huy động phải có giới hạn trên cơ sở thu nhập được tạo ra từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá.
- Việc xây dựng thuế suất phải đảm bảo giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân, một mặt vừa đảm bảo huy động hợp lý nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, mặt khác phải tính đến lợi ích của tập thể, cá nhân.
- Trong những điều kiện nhất định thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được xây dựng ở mức thấp nhưng hợp lý không những không làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn tạo điều kiện tăng lên bởi có sự đầu tư trở lại sản xuất, kinh doanh và tính tự giác hơn của đối tượng nộp thuế; thuế suất cao mà không hợp lý sẽ là một trong những nguyên nhân của tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại hàng hoá gia tăng, gây thất thu ngân sách nhà nước.
- Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Nhà nước phải đảm bảo tính khả thi, tính hiệu quả, tức là chính sách thuế phải phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ, đồng thời phải đơn giản về mặt hành chính tức là phải dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra; điều đó không chỉ đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn có tác dụng khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá.
1.1.2. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Căn cứ để tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với một đơn vị hàng hoá là giá tính thuế và thuế suất( Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu):
- Giá tính thuế: Về nguyên tắc giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá CIF tại cửa khẩu nhập: C là giá mua; I là bảo hiểm; F là phí vận chuyển. Các chứng từ được sử dụng làm cơ sở để xác định giá theo nguyên tắc này là: Hợp đồng ngoại thương, hoá đơn thương mại, vận đơn, chứng từ vận chuyển, bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) và các chứng từ thanh toán như: L/C…Do trong thực tế hàng hoá nhập khẩu hết sức phong phú và đa dạng, nhập từ nhiều nguồn khác nhau và dưới các hình thức nhập khẩu khác nhau (nhập khẩu chính ngạch, tiểu ngạch, phi mậu dịch…) nên không phải trường hợp nào cũng có đầy đủ các chứng từ hợp lệ làm căn cứ xác định giá tính thuế phù hợp sao cho vừa đảm bảo tính khách quan, vừa đảm bảo quản lý được giá hàng nhập khẩu để chống lợi dụng gian lận thương mại qua giá, thông thường có các trường hợp sau:
+ Trường hợp có hợp đồng mua bán ngoại thương, thanh toán qua Ngân hàng và có đủ các chứng từ hợp lệ, thì giá tính thuế là giá CIF; tức là giá mua hàng tại cửa khẩu nhập bao gồm cả chi phí vận chuyển và chi phí bảo hiểm quốc tế.
+ Trường hợp không có hợp đồng hoặc hợp đồng không hợp lệ thì giá tính thuế được quy định trong bảng giá tối thiểu; việc qui định giá tối thiểu một mặt tạo điều kiện cho công tác quản lý thu thuế, mặt khác là một biện pháp chống gian lận thương mại qua giá. Tuy nhiên, nếu giá tối thiểu được xây dựng thiếu chính xác và không được điều chỉnh kịp thời theo mặt bằng giá thực tế, thì việc tính thuế theo bảng giá tối thiểu lại trở thành một trở ngại đối với hoạt động nhập khẩu hàng hoá, gây thất thu ngân sách và không khuyến khích văn minh thương mại. Nếu quá lạm dụng việc sử dụng giá tối thiểu như một biện pháp bổ xung cho hàng rào thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu hoặc phân biệt đối xử thì sẽ là một rào cản lớn đối với tiến trình tự do hoá thương mại. Để khắc phục tình trạng đó GATT, tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày nay đã quy định các phương pháp xác định trị giá hải quan. Theo quy định các phương pháp xác định trị giá Hải quan của hàng nhập khẩu phải căn cứ vào trị giá giao dịch thực tế của hàng hoá, không áp dụng trị giá áp đặt, phải là trị giá mà với mức giá đó có thể bán trong kỳ kinh doanh bình thường trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, không có sự thông đồng giữa người mua và người bán.
- Thuế suất: Nguyên tắc chung để xác định mức thuế suất thuế nhập khẩu là dựa trên sự chênh lệch giá cả giữa mặt bằng giá quốc tế và mặt bằng giá nội địa của cùng một loại hàng hoá, theo đó tuỳ thuộc vào mức độ hạn chế hay khuyến khích nhập khẩu đối với từng ngành hàng hoặc nhóm hàng nào đó mà người xây dựng mức thuế suất thuế nhập khẩu cho phù hợp, thông thường xây dựng thuế suất thuế nhập khẩu theo 3 cấp độ sau:
+ Ở cấp độ bảo hộ thông thường thì thuế suất thuế nhập khẩu được xác định sao cho mức thuế suất thuế nhập khẩu đúng bằng sự chệnh lệch giữa mặt bằng giá cả nội địa và mặt bằng giá cả quốc tế của cùng một loại hàng hoá.
+ Ở cấp độ bảo hộ triệt để thì thuế suất thuế nhập khẩu được xác định sao cho mức thuế suất thuế nhập khẩu lớn hơn sự chênh lệch giữa mặt bằng giá cả nội địa với mặt bằng giá cả quốc tế của cùng một loại hàng hoá, trong trường hợp này sẽ dẫn đến tình trạng giá hàng ngoại nhập cao hơn so với giá hàng nội địa, vì vậy có tác dụng hạn chế nhập khẩu để bảo hộ sản xuất nội địa, không khuyến khích tiêu dùng hàng ngoại nhập.
+ Ở cấp độ không cần bảo hộ thì thuế suất thuế nhập khẩu được xác định sao cho mức thuế nhập khẩu nhỏ hơn sự chênh lệch giữa mặt bằng giá cả nội địa với mặt bằng giá cả quốc tế. Trường hợp này sẽ dẫn đến tình trạng giá hàng ngoại nhập rẻ hơn so với giá hàng trong nước, tạo áp lực thúc đẩy sản xuất nội địa, buộc các doanh nghiệp phải có phương án đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Như vậy, thuế suất thuế nhập khẩu được xây dựng trên cơ sở mức độ chênh lệch giữa mặt bằng giá cả nội địa so với mặt bằng giá cả thế giới và quan điểm bảo hộ của Nhà nước đối với từng mặt hàng, ngành hàng. Đây là nguyên tắc chung để xác định thuế suất phổ thông đối với hàng nhập khẩu. Trong xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại, thuế nhập khẩu còn đóng vai trò là một công cụ đối ngoại về mặt kinh tế giữa các quốc gia, giữa các khu vực và thực hiện các cam kết quốc tế. Vì vậy, ngoài thuế suất phổ thông còn có thuế suất ưu đãi. Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước hoặc nhóm nước có ký thoả thuận ưu đãi về thuế nhập khẩu. Mức thuế suất ưu đãi thường được quy định thấp hơn mức thuế suất phổ thông theo một tỷ lệ nào đó. Thuế suất ưu đãi cũng có thể bao gồm thuế suất ưu đãi chung và thuế suất ưu đãi đặc biệt tuỳ theo tính chất và nội dung của các Hiệp định Thương mại giữa các nước và các khu vực.
- Phương pháp tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Có nhiều phương pháp tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, nói chung các phương pháp sau đây thường được áp dụng:
Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ: Là phương pháp tính thuế mà số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ấn định theo tỷ lệ % của trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu; tỷ lệ % ở đây được quy định cao hay thấp tuỳ theo từng loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Phương pháp tính thuế theo đơn vị hàng hoá: Là phương pháp tính thuế mà số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ấn định cụ thể trên một đơn vị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, đơn vị có thể là chiếc, cái, tấn, m3… mà không quan tâm đến trị giá mua của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đó.
Phương pháp tính thuế kết hợp: Là phương pháp tính thuế kết hợp giữa phương pháp tính thuế theo tỷ lệ và phương pháp tính theo đơn vị hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Theo phương pháp này thì ngoài việc phải nộp thuế theo tỷ lệ % của trị giá hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu còn phải nộp một khoản thuế theo đơn vị của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Phương pháp tính thuế theo hạn ngạch hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu: Theo phương pháp này thì số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ấn định theo mức hạn ngạch hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Nếu xuất khẩu, nhập khẩu vượt quá hạn mức quy định thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ được điều chỉnh tăng lên hoặc giảm đi tuỳ theo từng loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
1.1.3. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Th