Hệ thống Toà án của nước ta đã trải qua những cải cách về tổ chức và hoạt động qua các thời kỳ theo quy định của Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), các luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và năm 2002. Nhìn chung, những thay đổi, cải cách của hệ thống Toà án đã mang lại những kết quả tích cực về tổ chức và hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu đặt ra từ thực tiễn xét xử cũng như yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Toà án phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người ., thì đòi hỏi ngành Toà án phải được cải cách mạnh mẽ từ nhận thức, pháp luật, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử.
Cải cách tư pháp nói chung, cải cách Toà án nói riêng là những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng như: Nghị quyết trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án theo hướng: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”.
11 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1995 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LLNN - 2011.02 - Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
ĐỌC NHIỀU (30 NGÀY):
LLNN - 2011.02 - Quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - 17.02.2011
LLNN - 2011.02 - Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN - 17.02.2011
NCLP - 2008.05 - Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát hiện nay - 19.05.2008
TTPL - 2010.12 - Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh - 05.12.2010
NCLP - 2010.03 - Sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam - 15.03.2010
Trụ sở Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Ảnh: ST
Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là định hướng cơ bản...
Cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là định hướng cơ bản trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Theo quy định của Hiến pháp Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Toà án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật trong các giai đoạn cách mạng của đất nước, hệ thống ngành Toà án đã góp phần rất to lớn bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Hệ thống Toà án của nước ta đã trải qua những cải cách về tổ chức và hoạt động qua các thời kỳ theo quy định của Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), các luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và năm 2002. Nhìn chung, những thay đổi, cải cách của hệ thống Toà án đã mang lại những kết quả tích cực về tổ chức và hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ và xây dựng đất nước từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Tuy nhiên, trước yêu cầu đặt ra từ thực tiễn xét xử cũng như yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp, Toà án phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người ..., thì đòi hỏi ngành Toà án phải được cải cách mạnh mẽ từ nhận thức, pháp luật, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử.
Cải cách tư pháp nói chung, cải cách Toà án nói riêng là những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đã được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng như: Nghị quyết trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án theo hướng: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”.
Để triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án, Toà án nhân dân tối cao đã và đang khẩn trương xây dựng, hoàn thiện Đề án tổng thể về thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao; đặt ra mục tiêu, nguyên tắc, phương hướng, nội dung, từng bước đi và phân công trách nhiệm trong việc xây dựng, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức lại hệ thống Toà án theo yêu cầu của cải cách tư pháp.
1. Khái quát thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân hiện nay
Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật; cơ cấu tổ chức của ngành Toà án theo địa giới hành chính: ở trung ương có Toà án nhân dân tối cao, ở địa phương có các Toà án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, còn có các Toà án quân sự được tổ chức trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Toà án đặc biệt.
Trên phạm vi toàn quốc, hiện nay có 742 Toà án nhân dân, bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, 63 Toà án nhân dân cấp tỉnh và 678 Toà án nhân dân cấp huyện (không tính các Toà án quân sự). Nếu xét theo thẩm quyền xét xử, hệ thống Toà án nhân dân có thể phân thành 741 Toà án cấp sơ thẩm (bao gồm 678 Toà án cấp huyện và 63 Toà án cấp tỉnh), 66 Toà án cấp phúc thẩm (bao gồm 63 Toà án cấp tỉnh và 3 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao), 69 cơ quan xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (bao gồm 63 Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, 5 Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao). Về cơ cấu tổ chức của từng Toà án: Toà án nhân dân tối cao có Hội đồng Thẩm phán; Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính, 03 Toà phúc thẩm, Tòa án quân sự trung ương, bộ máy giúp việc.
Về số lượng cán bộ, Thẩm phán, đến thời điểm tháng 3/2008, Toà án nhân dân tối cao có 524/603 người, trong đó có 116/120 Thẩm phán; Toà án nhân dân cấp tỉnh có 3264/3559 người, trong đó có 998/1118 Thẩm phán; 678 Toà án nhân dân cấp huyện có 7550/7822 người, trong đó có 3250/3690 Thẩm phán. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, 100% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 95% Thẩm phán cấp tỉnh và cấp huyện có trình độ cử nhân luật; 90% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 66% Thẩm phán cấp tỉnh và 20% Thẩm phán cấp huyện có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp là Đảng viên, đa số đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, đảng viên theo quy định. Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử hiện nay quy định đối với Toà án cấp tỉnh, cấp huyện trên các địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử với tỷ lệ gia tăng án hàng năm là 15%, trong vòng 5 năm tới ngành Toà án nhân dân cần bổ sung mỗi năm khoảng 1000 người, trong đó có khoảng 500 Thẩm phán, thì mới đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ dừng ở việc thiếu số lượng mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế còn nhiều hạn chế, trong khi đó đã bắt đầu phát sinh nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài.
Về cơ sở vật chất của các Toà án, do trong thời gian dài không được quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính, cấp tỉnh, cấp huyện trong hơn 10 năm qua nên hiện nay trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Toà án, nhất là ở cấp huyện còn thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và phòng xét xử. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Toà án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù của công tác xét xử, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Toà án.
Về hoạt động xét xử của các Toà án, trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên tục gia tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15% làm cho công việc của các Tòa án ngày càng quá tải. Riêng năm 2007 (số liệu tính từ 1/10/2006 đến 30/9/2007), tổng các loại vụ án mà Tòa án nhân dân các cấp thụ 1ý, xét xử là 256.647 vụ, tăng 23.806 vụ so với năm 2006, trong đó Tòa án cấp huyện thụ lý, xét xử sơ thẩm 204.563 vụ; Tòa án cấp tỉnh thụ lý xét xử 45.821 vụ (bao gồm sơ thẩm 18.683 vụ, phúc thẩm 26.739 vụ và giám đốc thẩm, tái thẩm 399 vụ); Tòa án nhân dân tối cao thụ lý, xét xử 6.263 vụ (bao gồm phúc thẩm 5.747 vụ, giám đốc thẩm, tái thẩm 516 vụ) và xem xét, xử lý 10.999 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Những bất cập và tồn tại chính về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án hiện nay
Qua nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Toà án nhân dân cho thấy một số tồn tại và bất cập chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi Toà án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, thì Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, các Toà án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Toà án nhân dân tối cao, hoặc có đầy đủ cả ba thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án, đó là vừa xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Toà án cấp tỉnh. Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Toà án mỗi cấp quy định trong hệ thống Toà án. Trên thực tế, mặc dù đã từng bước tăng thẩm quyền xét xử cho các Toà án nhân dân cấp huyện, nhưng các Toà án nhân dân cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Toà án cấp huyện với tư cách là Toà án sơ thẩm trong hệ thống Toà án. Các bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh, về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị huỷ bởi Toà án nhân dân tối cao nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của chế định giám đốc thẩm; tái thẩm. Đối với Toà án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giải quyết, xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và trên thực tế, không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã bị kháng nghị và bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Toà án nhân dân tối cao vô hình trung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín pháp lý của Toà án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Toà án. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế định giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm tạo cơ chế khắc phục các sai lầm trong việc giải quyết, xét xử các vụ án và để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử trên bình diện chung của cả hệ thống Toà án. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (gồm 63 Toà án cấp tỉnh, 5 Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao), thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, hoặc thậm chí có trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao bị Hội đổng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ. Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết một vụ án kéo dài, thậm chí không có điểm dừng, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó làm vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Toà án các cấp, ở Toà án nhân dân tối cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Toà án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Toà án địa phương về tổ chức; Toà án nhân dân cấp tỉnh, tuy có vị trí là Tòa án cấp dưới, nhưng có vai trò vừa là Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm, ngoài ra còn có nhiệm vụ quản 1ý các Tòa án cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, sức ép về công việc đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất và đối với Toà án của các thành phố lớn. Đối với Toà án nhân dân cấp huyện, do được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên dàn trải, nhiều đầu mối, có nơi quá nhiều việc, có nơi lại quá ít việc.
Trên thực tế, những bất cập nói trên về tổ chức và hoạt động của các Toà án đang gây ra những trở ngại, khó khăn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và tổ chức công việc để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác ở Toà án mỗi cấp và ở từng Toà án. Đối với các Toà án cấp huyện có khối lượng lớn về công việc (như các Tòa án thành phố, thị xã thuộc tỉnh của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất luôn là gánh nặng và là vấn đề bức xúc do xuất phát từ yêu cầu phải giải quyết một khối lượng công việc về chuyên môn quá lớn và ngày càng tăng theo đà phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương đó. Ngược lại, đối với những Toà án cấp huyện ở khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc có khối lượng công việc phải quyết không đáng kể nhưng vẫn phải bố trí đủ cán bộ theo cơ cấu tổ chức bộ máy của Toà án theo quy định và yêu cầu phải có trụ sở, phương tiện làm việc như các đơn vị khác nên đã gây ra lãng phí không đáng có về nhân lực và vật lực. Mặt khác, do được tổ chức theo đơn vị hành chính nên Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện được coi là các Toà án nhân dân địa phương, nên địa vị pháp lý của những Toà án cấp này chưa được xác định một cách chính xác, hợp lý và phù hợp với vai trò, vị trí của Toà án trong hệ thống bộ máy nhà nước. Cụ thể, Toà án nhân dân cấp tỉnh được xác định giống như một cơ quan cấp sở của tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện được xem như một cơ quan cấp phòng của huyện. Do đó, việc xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến tổ chức của các Toà án còn chưa thực sự thoả đáng. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, Thẩm phán Toà án các cấp được quy định như các ngạch cán bộ, công chức hành chính nhà nước khác là không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và không tương xứng với vị trí, vai trò và tính chất hoạt động quan trọng của cơ quan Toà án trong bộ máy Nhà nước. Hiện tại, việc xây dựng, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ và việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Toà án gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân có phần xuất phát từ những yếu tố bất cập mang tính khách quan nói trên.
Thứ ba, do các Toà án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ và Hội đồng nhân dân quan tâm theo hướng tích cực và đúng quy định của pháp luật đến công tác tư pháp thì Toà án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao. Ngược lại, nơi nào cấp uỷ, Hội đồng nhân dân không quan tâm đúng mức tới công tác Toà án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng sự chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Toà án thì công tác Toà án gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
3. Định hướng cơ bản về đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án nhân dân
Việc triển khai thực hiện thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao trong thực tế, cần phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Toà án; sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu Hội thẩm nhân dân; quản lý về tổ chức đối với các Toà án; đưa ra các giải pháp và phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra phương hướng giải quyết một số vấn đề cụ thể về đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Toà án nhân dân.
3.1. Về Toà án sơ thẩm khu vực
- Nguyên tắc thành lập, nhiệm vụ, thẩm quyền và số lượng các Toà án sơ thẩm khu vực
Trong quá trình xây dựng Đề án, có quan điểm cho rằng có thể thành lập Toà án sơ thẩm khu vực ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một tỉnh hoặc khác tỉnh, vì trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 chỉ nêu Toà án sơ thẩm cấp khu vực được tổ chức không phụ thuộc vào đơn vị hành chính và được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, không xác định rõ là các huyện trong cùng một tỉnh hay ở các tỉnh khác nhau. Tuy nhiên, phương án mỗi Toà án sơ thẩm khu vực được thành lập trên cơ sở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một tỉnh sẽ bảo đảm và xác định được sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân một tỉnh nhất định đối với tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp khu vực.
Toà án sơ thẩm khu vực được coi là Toà án cấp thứ nhất trong hệ thống Toà án, có nhiệm vụ và thẩm quyền chung là xét xử, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh- thương mại, tuyên bố phá sản, lao động, hôn nhân - gia đình, hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng. Bên cạnh thẩm quyền chung như nêu trên, thẩm quyền cụ thể của từng Toà án sơ thẩm khu vực sẽ được xác định theo quản hạt tư pháp và theo tính chất của những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Theo Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính Trị, Toà án sơ thẩm khu vực là Toà án chuyên xét xử, giải quyết các vụ việc theo thủ tục sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm là chủ yếu, nhưng vẫn có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm một số vụ án. Do vậy, vẫn cần phải có các quy định của pháp luật tố tụng về các loại vụ án thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp phúc thẩm. Việc xác định thẩm quyền theo vụ việc đối với các Toà án sơ thẩm khu vực cần phải có lộ trình hợp lý để vừa bảo đảm hoạt động bình thường của Toà án sơ thẩm khu vực khi mới thành lập, vừa bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp.
Việc xác định thành lập khoảng bao nhiêu Toà án sơ thẩm khu vực cần dựa trên những tiêu chí nhất định như: số lượng các loại vụ án xảy ra; quy mô về địa giới hành chính; số lượng dân cư, địa bàn khu vực địa lý và điều kiện phát triển kinh tế xã hội khu vực dự kiến sẽ thành lập Toà án sơ thẩm khu vực, trong đó số lượng các vụ án dự định cho mỗi đơn vị Toà án sơ thẩm khu vực và giới hạn địa bàn khu vực địa lý là những tiêu chí cơ bản. Theo thống kê, số lượng bình quân các vụ án một năm của Toà án cấp tỉnh cỡ trung bình là khoảng 900 vụ. Nếu lấy tiêu chí về số vụ án là từ 900 vụ trở lên và có tính đến quy mô, mức độ tập trung dân cư lớn, tốc độ phát triển kinh tế xã hội, thì có khoảng 70 đơn vị Toà án cấp quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thể chuyển đổi thành Toà án sơ thẩm khu vực.
Ở khu vực các huyện đồng bằng, có thể sáp nhập h