- Mô tả chuyên đề: Chuyên đề này chưa có trong chương trình đào tạo bậc cử nhân, với tư cách một bài giảng hoàn chỉnh, chỉ có một phần “Sự vận dụng đường lối cách DTDCND của Đảng trong điều kiện mới của cách mạng miền Nam sau năm 1954”. Trong phần này cũng chỉ giới thiệu những nội dung rất cơ bản mang tính khái quát.
20 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới của cách mạng miền nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 6:
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM
- Giang viên phụ trách: Tiến sĩ Lê Văn Mạnh
- Mô tả chuyên đề: Chuyên đề này chưa có trong chương trình đào tạo bậc cử nhân, với tư cách một bài giảng hoàn chỉnh, chỉ có một phần “Sự vận dụng đường lối cách DTDCND của Đảng trong điều kiện mới của cách mạng miền Nam sau năm 1954”. Trong phần này cũng chỉ giới thiệu những nội dung rất cơ bản mang tính khái quát.
- Mục tiêu của chuyên đề: Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản, hệ thống, chuyên sâu về quá trình vân dụng đường lối CMDTDCND được Đảng ta hoàn chỉnh tại Đại hội II (1951) vào điều kiện mới của cách mạng miền Nam, với kẻ thù là đế quốc Mĩ- tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất thế giới. Người học sẽ nắm được quá trình rất khó khăn, cam go trong phát triển nhận thức, từng bước xác định đường lối kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của Đảng ta.
- Yêu cầu đối với người học: Trên cơ sở những nội dung được giới thiêu, người học phải tìm đọc tài liệu (đã giới thiêu) để hiểu sâu sắc và nắm chắc kiến thức xung quanh chuyên đề này.
- Nội dung của chuyên đề:
Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai của nhân dân ta đã giành thắng lợi, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Theo đó, miền Bắc được giải phóng, sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước để thống nhất nước nhà. Nhưng, đế quốc Mĩ với mưu đồ bá chủ thế giới đã thế chân Pháp, áp dụng chính sách xâm lược miền Nam Việt Nam theo lối chủ nghĩa thực dân kiểu mới rất thâm độc, chúng dựng lên chính quyền tai sai Ngô Đình Diệm, ngang nhiên phá hoại Hiệp định. Cách mạng Việt Nam một lần nữa đứng trước những khó khăn, thách thức mới đầy cam go. Đảng và nhân dân ta phải tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
1. Hoàn cảnh lịch sử cách mạng miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ (1954)
Hai năm sau Hiệp định Giơnevơ (7/1954 – 7/1956), Mỹ và Pháp đã vật lộn, giành giật miền Nam Việt Nam. Pháp suy yếu và chính sách thực dân cũ đã lỗi thời; tính chất xâm lược trắng trợn và bị phơi trần, bị nhân dân thế giới lên án, phản đối. Mỹ trước đây (1945) nhường Đông Dương cho Pháp nhằm co kéo Pháp làm đồng minh, chống lại phong trào XHCN (Do Liên Xô đứng đầu), nhưng nay Mỹ thấy rằng, Pháp không đủ sức duy trì sự thống trị Đông dương nữa và Mỹ sẽ áp dụng chính sách thực dân mới, che đậy tính chất xâm lược. Điều Mỹ lo lắng nhất là, nếu để miền Nam lọt vào tay cộng sản thì sẽ dẫn đến hiện tượng “đô mi nô”, tức là hàng loạt nước ở khu vực này sẽ bị ảnh hưởng hoặc đi theo CNCS. Ngày 2-8-1954, Đa-lét tuyên bố: Vấn đề quan trọng hiện nay là phải cướp lấy cơ hội thuận lợi trong tương lai, đừng để cho thất bại ở Bắc Việt Nam dẫn đến một sự phát triển của CNCS ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình dương.
Thực hiện âm mưu này, Mỹ chủ trương dựng lên chính quyền tay sai thân Mỹ, thực hiện chính sách “đả thực” và “bài phong”. “Đả thực” là hất cẳng Pháp, “bài phong” là gạt bọn tay sai của Pháp trong giai cấp địa chủ, phong kiến. Số còn lại sẽ phải cúi đầu chịu phục tùng Mỹ. Ngày 16-6-1954, Mỹ ép Pháp và Bảo Đại buộc Thủ tướng Bửu Lộc (tay sai của Pháp) từ chức và bổ nhiệm Ngô Đình Diệm (do Mỹ đưa từ Mỹ trở về) lên làm Thủ tướng. Bảo Đại viết hồi ký: Ngày 16/6/1954, sau khi gặp và trao đổi với Đa-lét, tôi gọi Ngô Đình Diệm đến biệt thự của tôi ở Cau và trao cho y chiếc ghế thủ tướng. Ngày 7 tháng 7 năm 1954, nội các thân Mỹ được thành lập (Thủ tướng Diệm kiêm Tổng trưởng Quốc phòng). Ngày 8-8-1954, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ (NSC) do Tổng thống Aixenhao chủ trì đã ra quyết định số 5429/2 chính thức hất cẳng Pháp với bốn nội dung cơ bản sau:
1. Mỹ trực tiếp viện trợ cho Nguỵ quyền Sài Gòn không qua tay Pháp.
2. Khoản 400 triệu USD kế hoạch viện trợ trong năm 1954 cho Pháp nay Pháp chỉ được nhận 100 triệu USD (đã nhận), 300 triệu USD còn lại viện trợ thẳng cho Diệm.
3. Buộc Pháp phải nhanh chóng rút hết quân ở MNVN và phải ủng hộ Diệm.
4. Loại bỏ Bảo Đại, tay sai lâu đời của Pháp.
P. Ê-ly, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, và là Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp xin từ chức. Bởi P. Ê-ly nhận thức được rằng: Mọi cố gắng của ông ta chỉ là vô ích. P. Ê-ly thừa nhận, Mỹ đã sử dụng đòn quyết định là đô la để hất cẳng Pháp. Ngày 9-10-1954, Diệm cách chức Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh, tay sai của Pháp. Hinh bị trục xuất sang Pháp cùng một loạt tướng tá thân Pháp khác. Tất cả lực lượng tay sai của Pháp còn lại tập hợp trong một tổ chức gọi là: “Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia” bao gồm ba thành phần chủ yếu là Cao đài, Hoà Hảo và Bình Xuyên nổi lên chống Diệm.
Được Mỹ hậu thuẫn, Diệm thực hiện một loạt các biện pháp nhằm tấn công vào lực lượng này: Cắt mọi khoản phụ cấp mà Pháp dành cho lực lượng này; ra sắc lện đóng cửa sòng bạc kim Chung và Đại Thế giới - nguồn thu chủ yếu của các giáo phái thân Pháp; cách chức Tổng giám đốc Cảnh sát thân Pháp Lại Văn Sang; dùng quân sự tiến công quân đội Bình Xuyên và chiếm Sở Cảnh sát Quốc gia do Bình Xuyên nắm giữ; bắt giam Nguyễn Văn Vỹ - Tổng chỉ huy mới do Bảo Đại cử ra. Truy quét quân đội Bình Xuyên và tiến công tiếp quân đội cuả Hoà Hảo bằng nhiều chiến dịch: Hoàng Diệu (10-1955), Đinh Tiên Hoàng (12-1955), Nguyễn Huệ (5-1956), bắt tướng Hoà Hảo Ba Cụt (Lê Quang Vinh); dụ hàng tướng Hoà Hảo Năm Lửa (Trần Văn Soái), hai tướng của Cao Đài Trịnh Minh Thế và Nguyễn Thành Phương.
Đến tháng 5- 1956, căn bản kết thúc cuộc giành giật giữa Pháp và Mỹ, phần thắng thuộc về Mỹ, Diệm. Ngay sau khi nắm được quân đội và công an, ngày 17-7-1955, Diệm tuyên bố: Không có hiệp thương tổng tuyển cử. Tháng 10- 1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” dưới lưỡi lê quân đội của Diệm để phế truất Bảo Đại, Diệm lên làm Tổng thống.
Đến tháng 7 năm 1955, quân nguỵ tay sai Mỹ đã lên tới 10 sư đoàn bộ binh và hàng chục trung đoàn độc lập. Hệ thống cố vấn Mỹ được cắm sâu vào bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền. Sau khi độc chiếm Đông Dương, Mỹ - Nguỵ hướng mũi nhọn đàn áp về phía cách mạng. Chúng đàn áp trắng trợn, dã man các cuộc đấu tranh của quần chúng đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Kết hợp thẳng tay đàn áp với mua chuộc, dụ hàng của Diệm đã làm các cơ sở cách mạng của ta ở nhiều địa phương bị tan vỡ. Số cơ sở còn lại phải rút vào hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Cách mạng miền Nam lâm vào khó khăn. Cùng với các chính sách và biện pháp tương tự như ở miền Nam, Mỹ dựng lên chính quyền tay sai thân Mỹ ở Lào, Campuchia.
1.1. Tình hình quốc tế
1.1.1. Thuận lợi
Liên Xô hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1955), lớn mạnh không ngừng cùng với hệ thống XHCN. Năm 1953 Liên Xô sản xuất được vũ khí khinh khí, đến tháng 10 năm 1957, sản xuất được tên lửa vượt đại châu, đã phá vỡ tình trạng Mỹ là nước duy nhất sản xuất được loại vũ khí này. Các tên lửa tầm trung mà Mỹ bố trí ở các nước đồng minh của Mỹ ở gần Liên Xô đã trở nên kém hiệu quả, giảm tác dụng, nước Mỹ không còn an toàn nữa. Chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” của Ai-xen-hao bị đảo lộn. Trong khi đó, hàng loạt sự kiện quốc tế khác đang gây bất lợi cho CNĐQ do Mỹ đứng đầu:
- Xu hướng li tâm khỏi Mỹ của các nước Tây Âu do Đờ-Gôn khởi xướng đang phát triển.
- Các nước XHCN ở Đông Âu dưới sự giúp đỡ của Liên Xô đang trên đà phát triển mạnh.
- Trung Quốc tuyên bố hoàn thành kế hoạch 5 năm 1953 – 1957 đạt nhiều thành tựu lớn.
- Tháng 5- 1955, Tổ chức Hiệp ước Vácsava ra đời, tạo đối trọng với khối quân sự Bắc Đại Tây dương (NATO).
- Tháng 10 năm 1956 cuộc khủng hoảng ở Ba Lan và Hunggari được giải quyết.
- Tháng 11 năm 1957, Hội nghị 64 Đảng Cộng sản và công nhân họp ở Mac-xcơ-va ra tuyên bố hoà bình, củng cố đoàn kết trong hệ thống XHCN và phong trào công nhân quốc tế.
- Tháng 12 năm 1953 Ấn Độ nhận viện trợ của Liên Xô, sau đó từ chối nhận viện trợ quân sự của Mỹ và ra tuyên bố thu hồi 4 thành phố thuộc địa của Pháp mà Mỹ đang có ý định thay thế.
- Có sức lan toả của chiến thắng Điện Biên phủ, tháng 8 năm 1954, Mặt trận giải phóng dân tộc An-giê-ri phát động khởi nghĩa và chiến tranh du kích, Pháp đưa 400.000 quân viễn chinh sang đàn áp nhưng chịu thất bại. Tháng 3 năm 1957 Pháp buộc phải ký Hiệp định Eviăng và rút quân khỏi An-giê-ri.
- Tháng 3 năm 1957, Ga-ma, nước châu Phi đầu tiên tuyên bố độc lập. Ngày 1-1-1959, cách mạng Cu Ba giành thắng lợi trong cả nước, tháng 5 năm 1960 tuyên bố đứng vào hệ thống các nước XHCN.
Phong trào độc lập dân tộc và xu hướng lên CNXH phát triển mạnh mẽ trên tất cả các châu lục làm phân tán lực lượng của CNĐQ, tăng sức cổ vũ cho CMMN, hỗ trợ tích cực cho sự nghiệp CMXHCN.
Sau khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, phong trào trung lập phát triển trong các nước dân tộc chủ nghĩa do giai cấp tư sản lãnh đạo. Khối trung lập châu Á gồm các nước Ấn Độ, Xri-lan-ca, In-đô-nê-xi-a, Miến Điện và Pakistan tuyên bố thành lập, họp ở Cô-lôm-bô lên tiếng đòi Mỹ đình chiến ở Đông Dương, đòi cấm vũ khí nguyên tử và lên án chủ nghĩa thực dân. Tháng 12 năm 1954, khối này họp mở rộng ra 29 nước Á, Phi tham gia. Hội nghị này ra tuyên bố 10 nguyên tắc hoà bình.
1.1.2. Khó khăn
Kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ tiến hành hàng loạt các biện pháp để củng cố vai trò siêu cường số một của mình. Mỹ từng bước hất cẳng đế quốc Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan để chiếm lấy thuộc địa của các nước này, mở rộng thị trường, ngăn ngừa sự phát triển của CNCS; Lập hệ thống tiền tệ, lấy đồng đô la làm trụ cột; Chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí nguyên tử làm cho Liên Xô suy yếu do phải chạy theo Mỹ; Xuất khẩu mạnh vũ khí, tập hợp đồng minh, lập ra các tổ chức kinh tế, tài chính, quân sự khiến các nước đế quốc khác lệ thuộc vào Mỹ. Ở Đông Dương, Mỹ tổ chức ra Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), đặt MNVN, Lào, Cam-pu-chia trong ô bảo hộ của Mỹ, ngăn chặn CNCS tràn qua vĩ tuyến 17 và phát triển ở khu vực này.
Trong khoảng 10 năm sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ đã thiết lập được sự thống trị đối với Tây Âu, Nhật Bản và hầu như toàn bộ thế giới tư bản. Mỹ nung nấu tham vọng về một “Đại thế kỷ Mỹ”.
Trong thời gian này xuất hiện sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế và hệ thống XHCN (vào những năm cuối thập kỷ 50). Nổi lên quyết liệt nhất là mâu thuẫn giữa Liên Xô với Trung Quốc (hai nước lớn trong hệ thống XHCN và có vai trò giúp đỡ to lớn nếu chiến tranh Việt Nam - Mỹ xảy ra)
Trong các điểm nóng trên thế giới, Mỹ chọn Việt Nam là trọng điểm vì: Việt Nam đang là một điểm sáng trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc; Mỹ có nhiều lợi ích chiến lược về chính trị, quân sự và kinh tế,…do đó Việt Nam trở thành nơi đụng đầu lịch sử. Thắng ở Việt Nam, Mỹ hy vọng sẽ dẹp được phong trào độc lập dân tộc trên thế giới, ngăn chặn có hiệu quả phong trào cộng sản chủ nghĩa.
Trước tiềm lực kinh tế, quân sự rất mạnh của Mỹ, nhiều nước trên thế giới mang tâm lý phổ biến là sợ Mỹ, phục Mỹ. Theo họ, Việt Nam sẽ nhanh chóng bị sức mạnh Mỹ đè bẹp.
Bối cảnh thế giới trên, đặt cho Đảng ta vấn đề: Làm thế nào để tranh thủ đến mức cao nhất chỗ mạnh của ba dòng thác cách mạng? Làm sao để tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân thế giới, hạn chế các nhân tố tiêu cực,…, ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
Thực dân Pháp áp đặt chế độ thực dân kiểu cũ 96 năm đã chịu thất bại, đây là tiền đề thuận lợi để ta giành thắng lợi trước chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ. Nhưng con đường dẫn đến thắng lợi chưa có sẵn. Đối tượng( kẻ thù) mới của cách mạng Việt Nam là đế quốc Mỹ, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn tất cả các đế quốc khác trên thế giới cộng lại. Mỹ là nước có nền kinh tế lớn và phát triển lớn nhất thế giới kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II, chiếm non nửa tổng sản phẩm của thế giới. Năm 1960 = 510 tỷ USD, 1968 = 830 tỷ USD, 1975 = 1.600 tỷ USD. So sánh trên một số mặt như sau: Tổng sản phẩm xã hội hơn Việt Nam 325 lần, đường bộ 505 lần, một số mặt khác gấp Việt Nam trên dưới một ngàn lần).
1.2.1. Thuận lợi cơ bản của ta
- Lực lượng cách mạng đã lớn mạnh hơn rất nhiều so với thời kỳ 1945 – 1954.
- Quyền làm chủ thuộc về nhân dân, có Đảng lãnh đạo, khí thế cách mạng của cả nước đang lên cao
- Có điều kiện quốc tế thuận lợi
1.2.2. Khó khăn cơ bản của ta
- Lực lượng cách mạng tại chỗ của miền Nam mỏng, phải rút vào hoạt động bí mật và ở thế giữ gìn lực lượng.
- Miền Bắc được giải phóng nhưng chưa được củng cố để trở thành hậu phương lớn vững chắc cho cách mạng miền Nam.
- Hậu quả xã hội thuộc địa, phong kiến và sự tàn phá sau 9 năm chiến tranh chống Pháp rất nặng nề.
- Nền kinh tế miền Bắc là nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ, trình độ sản xuất thấp kém.
- Đảng chưa chuyển biến kịp về tổ chức, đường lối, do hạn chế về nhận thức trước sự chuyển biến giai đoạn cách mạng.
- Trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về lý luận cách mạng còn thấp, lại chưa được trang bị một cách cơ bản, có hệ thống.
- Đảng, Nhà nước lúng túng và có nhiều hạn chế trong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân. Hữu khuynh trước những hành động chống đối của các phần tử chống con đường đi lên CNXH…
Những khó khăn của cách mạng rất nghiêm trọng, đòi hỏi bản lĩnh của Đảng phải rất cao mới có thể vượt qua được. Hàng loạt vấn đề đặt ra cho Đảng: Miền Bắc đi lên xây dựng CNXH ngay hay chờ miền Nam? Miền Nam có trường kỳ mai phục, chờ thời, chịu chia cắt lâu dài hay tiếp tục cuộc CMDTDCND tiến lên giải phóng hoàn toàn? Cách mạng Việt Nam nói chung, cách mạng miền Nam nói riêng tiến lên bằng con đường thi đua hoà bình hay con đường bạo lực? Con đường để giải phóng miền Nam như thế nào để giữ được hoà bình ở miền Bắc, không để chiến tranh lan ra khu vực hoặc chiến tranh thế giới? Miền Bắc phải xây dựng và củng cố quốc phòng như thế nào để vừa bảo vệ được miền Bắc, vừa trở thành hậu phương lớn chi viện cho miền Nam tiến hành chiến tranh giải phóng?
2. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam trong điều kiện mới
2.1. Quá trình hình thành đường lối
2.1.1. Quá trình tìm tòi đầu tiên
Quá trình tìm tòi, thử nghiệm diễn ra hết sức công phu, gian khổ với sự đầu tư trí tuệ cao nhất. Báo cáo của Bộ Chính tri tại Hội nghị Trung ương 9 -khóa II đã chỉ ra những tồn tại, yếu kém trong hệ thống tổ chức của Đảng, một số nội dung về công tác xây dựng Đảng…Bộ Chính trị nhấn mạnh một số nội dung cơ bản: Đề cao hơn nữa nguyên tắc lãnh đạo tập thể, chống sùng bái cá nhân. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; Sự liên hệ không được mật thiết giữa TW Đảng với toàn Đảng và quần chúng do dân chủ nội bộ chưa được phát huy, tác phong làm việc quan liêu, xa rời thực tế; chưa làm tốt phê bình và tự phê bình; Công tác tổ chức của Trung ương không tiến kịp yêu cầu của sự lãnh đạo chính trị.
Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 8, 9- 6- 1956 đã phân tích về tình hình miền Nam: Mỹ - Diệm và tay sai tiếp tục hất cẳng Pháp, làm xuất hiện mâu thuẫn giữa Mỹ với Pháp. Mỹ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Sau khi chỉ ra tính chất và mâu thuẫn của xã hội miền Nam, Bộ Chính tri kiểm điểm, Đảng lãnh đạo đối với miền Nam không có hệ thống; không kịp thời, thiếu cụ thể; không sắc bén; không có chính sách cụ thể đối với miền Nam;
Trên cơ sở đường lối, phương châm chung, Đảng đã chỉ ra những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam. Tuy nhiên, vẫn thiên theo hướng sử dụng phương pháp hoà bình, thông qua tổng tuyển cử, Cụ thể:
- Tính chất cuộc cách mạng: Dân tộc và dân chủ
- Mục tiêu: Thực hiện thống nhất Việt Nam bằng hiệp thương tổng tuyển cử.
- Nhiệm vụ: Phản đế và phản phong
- Phương pháp cách mạng: Đấu tranh và chủ trương thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình là đúng. Tin tưởng chủ trương của ta có thể thực hiện được.
- Hình thức đấu tranh: Hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp.
- Đấu tranh chính trị là chủ yếu, có vũ trang tự vệ trong những trường hợp nhất định, nhưng phải có sự lãnh đạo của Đảng.
- Củng cố Đảng bộ miền Nam là một trọng tâm công tác, có tính chất quyết định trong phong trào đấu tranh hiện nay ở miền Nam
Tháng 7- 1956, Đảng khẳng định: Hiệp thương tổng tuyển cử sẽ không thực hiện đúng kỳ hạn, ta tiếp tục đấu tranh đang và sẽ gặp khó khăn lớn do Diệm không thừa nhận Hiệp định Giơ-ne-vơ và thái độ trốn tránh trách nhiệm của Pháp. Vì vậy, Đường lối chung, nhiệm vụ chung là “Ra sức đoàn kết tập hợp lực lượng toàn dân (củng cố miền Bắc, giữ vững và phát triển lực lượng ở miền Nam) đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, kiên quyết đấu tranh, tiếp tục thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ bằng phương pháp hòa bình. Yêu cầu: nắm vững phương pháp hòa bình nhưng phải chuẩn bị ứng phó với tình thế địch đang ra sức phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, ta càng phải ra sức đấu tranh giữ vững Hiệp định ấy.
Điện của Trung ương gửi Xứ ủy Nam Bộ ngày 1- 8- 1956: “Trung ương không có đủ tài liệu làm cơ sở để nhận định một cách đầy đủ. Đề nghị Xứ ủy cố gắng cung cấp cho Trung ương. Đến Nghị quyết Trung ương 10- khóa II (mở rộng). Mặc dù kẻ thù đã trắng trợn xé toạc Hiệp định Giơnevơ, không thực hiện hiệp thương ttổng tuyển cử nhưng tại Hội nghị Trung ương này, bên cạnh các chủ trương về xây dựng, củng cố miền Bắc, Đảng ta vẫn hi vọng khả năng hoà bình để thống nhất đất nước. Cụ thể:
- Ra sức củng cố miền Bắc -> cơ sở đấu tranh thống nhất nước nhà
- Ra sức giữ vững và phát triển cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam
- Ra sức khôi phục và phát triển quan hệ Bắc – Nam
- Tăng cường đấu tranh đòi thi hành Hiệp định.
Tháng 8- 1956, Xứ uỷ Nam Bộ căn cứ vào tình hình thực tiễn miền Nam, đề ra đường lối cách mạng miền Nam (Đề cương cách mạng miền Nam). Bản đề cương cách mạng miền Nam thể hiện sự phát triển nhận thức của Xứ uỷ Nam Bộ với một số nội dung cơ bản sau: Hình thành tư tưởng đường lối hai chiến lược, “Cách mạng miền Nam không những là cùng với toàn quốc tranh đấu thực hiện mục đích chung của toàn quốc mà còn phải đấu tranh để thực hiện mục đích riêng của mình, tức là tranh đấu tự giải phóng ra khỏi chính quyền đế quốc, phong kiến Mỹ - Diệm, “Hai mục đích ấy dính chặt với nhau làm một”; Nhân dân miền Nam phải đứng lên đập tan chính sách độc tài , phát xít của Mỹ - Diệm để tự cứu mình. Tư tưởng nổi bật của Đề cương cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng bằng hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang.
Đề cương cách mạng miền Nam nêu ra bốn bài học kinh nghiệm: Xây dựng lực lượng đủ mạnh để đón thời cơ; Phải có một đảng cách mạng đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân và nhân dân lao động, theo chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo; Phải xây dựng khối liên minh công – nông sâu rộng, vững chắc; Phải xây dựng củng cố, phát triển …..dân tộc; Phải biết khai thác những mâu thuẫn nội bộ địch.
2.1.2. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 – Khoá II (mở rộng) tháng 1-1959
Về xác định kẻ thù, Trung ương chỉ rõ, Mỹ - Diệm là kẻ thù chính của nhân dân ta, quân đội chúng xây dựng có thể có một phần kỹ thuật, nhưng tinh thần thấp kém, sợ chiến tranh, sợ phải đánh với quân đội ta. Tính chất xã hội miền Nam là xã hội thuộc địa kiểu mới của Mỹ kết hợp với phong kiến quan liêu phản động nhất và tư sản mại bản thân Mỹ. “Chính quyền miền Nam là một chính quyền đế quốc xâm lược và phong kiến độc tài hiếu chiến”. Xã hội miền Nam có các mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa một bên là đế quốc Mỹ, tập đoàn phong kiến và tư sản mại bản với một bên là dân tộc Việt Nam. Đây là mâu thuẫn chủ yếu. mâu thuẫn đấu tranh giữa con đường CNXH với CNTB ở miền Bắc. Ngoài ra, Trung ương còn chỉ ra những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù: mâu thuẫn giữa địa chủ, tư sản mại bản quan liêu thân Mỹ có địa vị nhưng không có thực quyền với Gia đình trị Ngô Đình Diệm; Các tay chân khác của Mỹ với Gia đình trị Ngô Đình Diệm; mâu thuẫn giữa Mỹ với kiểu Gia đình trị của Ngô Đình Diệm. mâu thuẫn giữa bộ máy hành chính với quân đội , quân đội với cảnh sát; mâu thuẫn giữa sự phồn vinh giả tạo với sự căm hờn bực tức , bất bình của các tầng lớp nhân dân miền Nam. Do đó, đối tượng của cách mạng miền Nam là đế quốc và phong kiến. Kẻ thù tr