Gây tê vùng trong phẫu thuật các mô mềm vùng mặt có một số ưu điểm so
với gây mê toàn thể như: hồi phục nhẹ nhàng hơn, ít tác dụng phụ, giảm đau kéo dài ở
giai đoạn hậu phẫu, thời gian lưu ở phòng hoi sức ngắn và chi phí thấp. So với gây tê
tại chỗ thì gây tê vùng sử dụng ít thuốc tê hơn, ít gây phù nề vùng phẫu thuật, ít có
nguy cơ gây biến dạng và tổn thương mô.
23 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da vùng mặt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GÂY TÊ VÙNG TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG
THƯ DA VÙNG MẶT
TÓM TẮT
Mở đầu: Gây tê vùng trong phẫu thuật các mô mềm vùng mặt có một số ưu điểm so
với gây mê toàn thể như: hồi phục nhẹ nhàng hơn, ít tác dụng phụ, giảm đau kéo dài ở
giai đoạn hậu phẫu, thời gian lưu ở phòng hoi sức ngắn và chi phí thấp. So với gây tê
tại chỗ thì gây tê vùng sử dụng ít thuốc tê hơn, ít gây phù nề vùng phẫu thuật, ít có
nguy cơ gây biến dạng và tổn thương mô.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da
vùng mặt.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, mô tả.
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên các bệnh nhân được phẫu
thuật cắt rộng tạo hình để điều trị ung thư da vùng mặt tại bệnh viện Ung Bướu
TPHCM từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008.
Kết quả: 75 bệnh nhân 28 nam 47 nữ, tuổi trung bình là 68,1 tuổi. Với tổng cộng
190 lần phong bế, liều thuốc tê Bupivacaine 0,25% sử dụng trung bình cho mỗi
bệnh nhân là 18,4mg, liều sử dụng trung bình cho một phong bế là 7,3 mg. 20 bệnh
nhân (26,7%) cần phải gây tê tại chỗ thêm trong quá trình phẫu thuật, không có
bệnh nhân nào phải chuyển sang gây mê nội khí quản. Thời gian mất cảm giác trung
bình là 10,3 phút, thời gian phẫu thuật trung bình là 47,3 phút, thời gian phục hồi
cảm giác đau trung bình là 163,2 phút. 86,7% bệnh nhân hợp tác tốt và rất tốt trong
phẫu thuật, hơn 90% bệnh nhân hài lòng về phương pháp vô cảm gây tê vùng để
phẫu thuật.
Kết luận: Gây tê vùng có thể được sử dụng một cách an toàn, dễ thực hiện và tạo
được một tình trạng huyết động ổn định trong phẫu thuật cắt rộng tạo hình để điều trị
ung thư da vùng mặt.
ABSTRACT
EVALUATE THE EFFECTS OF REGIONAL ANESTHESIA
IN SURGICAL TREATMENT OF FACIAL SKIN CANCER
Nguyen Van Chung, Nguyen Dinh Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 447 - 454
Introduction: Regional anesthesia for facial surgery presents several advantages over
general anesthesia including smoother recovery, less side-effects, residual analgesia
into the postoperative period, earlier discharge from the recovery room and reduced
costs. Regional anesthesia has advantages over local anesthesia because there is less
tissue swelling at the operative site, decreases the risk of distortion and damage of
tissue.
Objectives: to evaluate the effects of regional anesthesia in surgical treatment of
facial skin cancer.
Study design: Prospective, descriptive study.
Subjects and methods: We analysed patients undergoing regional anesthesia for
wide excision and reconstruction in treatment of facial skin cancer in Oncology
Hospital from July 2007 to April 2008.
Results: 75 patients were studied (28 males, 47 females); mean age was 68.1 year-
old; 190 blocks were performed; mean dose of Bupivacaine 0.25% per patient was
18.4mg, mean dose per block was 7.3mg. No patient received general anesthesia but
additional infiltration of local anesthetics was necessary in 20 patients (26.7%). Mean
time to full sensory loss was 10.3 min; mean duration of block before recovery of
pain sensory was 163.2 min. Tolerance of the surgical procedure was considered as
good or excellent in 65 patients (86.7%); 70 patients (93.3%) were very satisfied or
satisfied with regional anesthesia for surgery.
Conclusions: Technically, facial regional blocks are safe and easy to perform, they
provide a stable hemodynamic during perioperative period in surgical treatment of
facial skin cancer.
MỞ ĐẦU
Ung thư da, chủ yếu là ung thư biểu mô loại tế bào đáy và tế bào gai, là 1 trong 10
nhóm ung thư thường gặp(Error! Reference source not found.). Tần xuất và tỷ lệ tử vong đang có
chiều hướng gia tăng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.).
Tại Việt Nam, ung thư da đứng vị trí thứ 8 trong 10 vị trí ung thư thường gặp tại
TPHCM năm 1997 cho cả 2 giới nam và nữ(Error! Reference source not found.) và phẫu thuật
cắt rộng tạo hình là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả nhất.
Tại bệnh viện Ung Bướu TPHCM, phẫu thuật cắt rộng tạo hình thường được thực
hiện với phương pháp vô cảm là gây mê toàn thể có đặt nội khí quản hoặc gây tê tại
chỗ đối với bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, hô hấp với một lượng thuốc tê lớn do
vùng phẫu thuật thường rộng, làm thay đổi rìa diện cắt do bơm thuốc tê gây phù nề
vùng mổ.
Trong khi đó, gây tê vùng có một số ưu điểm so với gây mê toàn thể như: hồi phục
nhẹ nhàng, ít tác dụng phụ, giảm đau kéo dài ở giai đoạn hậu phẫu, thời gian lưu ở
phòng hồi sức ngắn và chi phí thấp(Error! Reference source not found.).
So với gây tê tại chỗ thì gây tê vùng sử dụng ít thuốc tê hơn, ít gây phù nề vùng phẫu
thuật, ít có nguy cơ gây biến dạng và tổn thương mô đối với vết thương dơ, dập
nát(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.).
Tại Việt Nam nói chung và bệnh viện Ung Bướu TPHCM nói riêng, chúng tôi chưa
ghi nhận được nghiên cứu nào về lợi ích của gây tê vùng trong phẫu thuật các mô
mềm vùng mặt.
Chính vì điều đó, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu "Đánh giá hiệu quả của gây tê
vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da vùng mặt" với mục tiêu:
1. Xác định liều lượng thuốc tê sử dụng trong gây tê vùng để phẫu thuật điều trị ung
thư da vùng mặt.
2. Đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê vùng trong phẫu thuật điều trị ung thư da
vùng mặt.
3. Khảo sát các tai biến, biến chứng của gây tê vùng trong và sau phẫu thuật điều trị
ung thư da vùng mặt.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cắt rộng tạo hình vùng mặt để điều trị ung thư da
theo chương trình tại khoa Phẫu Thuật – Gây Mê Hồi Sức, bệnh viện Ung Bướu
TPHCM từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008.
Xếp loại ASA 1,2,3.
Được sự đồng ý của bệnh nhân và ký cam kết.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không hợp tác hoặc rối loạn tâm thần.
Tiền căn dị ứng thuốc tê.
Nhiễm trùng nơi gây tê.
Rối loạn đông máu.
Bệnh nhân ung thư da đã được phẫu thuật cắt rộng tạo hình bị tái phát
Bệnh nhân có tổn thương nằm trên điểm mốc để gây tê vùng.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả.
Cỡ mẫu
Với khoảng tin cậy 95% ta có = 0,05; Z = 1,96; P = 0,78 (dựa vào nghiên cứu có
trước trong y văn(Error! Reference source not found.)); d = 0,1 (sai số cho phép).
n = 65,922
Cỡ mẫu tối thiểu là 66 bệnh nhân.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị máy móc, thuốc men và phương tiện nghiên cứu:
Máy gây mê, đèn soi thanh quản, mặt nạ, ống nội khí quản, máy hút, ống hút, máy
theo dõi dấu hiệu sinh tồn, ống nghe, ống chích 5ml, 10ml, kim tiêm 25G…
Thuốc
Thuốc tê: Bupivacaine (Marcain) 0,25%, Lidocaine 1-2%.
Thuốc khác: Midazolam, Fentanyl, Thiopentone, Propofol, Rocuronium, Atropine,
Ephedrine, Adrenaline, Hydrocortisone…
Dịch truyền: Lactat Ringer, Natri Chlorua 0,9%, Glucose 5%, Gelafundin…
Chuẩn bị bệnh nhân
Bệnh nhân được làm các xét nghiệm tiền phẫu như: huyết đồ, nhóm máu, chức năng
đông máu, đường huyết, ion đồ, chức năng gan, thận, ECG, X quang tim phổi…
Bệnh nhân được khám lâm sàng và cận lâm sàng để xếp loại ASA và đánh giá những
vị trí định gây tê vùng.
Kỹ thuật tiến hành
Trước phẫu thuật
Bệnh nhân được đặt đường truyền tĩnh mạch ở tay với kim luồn 20G hoặc 18G, theo
dõi và ghi nhận mạch, huyết áp, SpO2, nhịp tim, ECG từ lúc vào phòng mổ.
Bệnh nhân được phẫu thuật viên đánh dấu vùng dự kiến phẫu thuật và vùng dự kiến
xoay, chuyển vạt da.
Dựa vào các điều trên chúng ta chọn các điểm mốc tê vùng thích hợp.
Bệnh nhân được tiền mê với Midazolam 0,03mg/kg và Fentanyl 1g/kg.
Sau đó bệnh nhân được sát trùng các điểm mốc cần làm tê và tiến hành gây tê vùng
bằng Bupivacaine 0,25% với thể tích từ 2 – 4ml tùy vùng gây tê(Error! Reference source not
found.).
Cụ thể
Đối với gây tê thần kinh trên ổ mắt: dùng kim 25G – 3cm, thể tích thuốc tê sử dụng là
3ml mỗi bên.
Đối với gây tê thần kinh trên ròng rọc thể tích thuốc tê sử dụng là 3ml mỗi bên.
Đối với gây tê thần kinh trên ổ mắt + thần kinh trên ròng rọc thể tích thuốc tê sử dụng
là 5ml mỗi bên.
Đối với gây tê thần kinh mũi mi thể tích thuốc tê sử dụng là 2ml mỗi bên.
Đối với gây tê thần kinh dưới ổ mắt thể tích thuốc tê sử dụng là 4ml mỗi bên.
Đối với gây tê thần kinh cằm thể tích thuốc tê sử dụng là 2ml mỗi bên.
- Ghi nhận thời gian mất cảm giác (cảm giác sờ và cảm giác đau – đánh giá cảm giác
sờ bằng que gòn và cảm giác đau bằng kim đầu tù, so sánh với bên đối diện hoặc
vùng da không bị mất cảm giác).
Trong phẫu thuật
- Bệnh nhân sẽ được đánh giá mức độ an thần theo 5 mức độ:
0: Bệnh nhân thức hoàn toàn
1: Mơ màng hay thiu thiu ngủ
2: Ngủ nhưng dễ thức tỉnh bằng lời nói
3: Ngủ sâu hơn, chỉ thức khi phải lay dậy
4: Rất khó đánh thức
- Bệnh nhân sẽ được đánh giá hiệu quả giảm đau của gây tê vùng khi rạch da và trong
phẫu thuật bằng thang điểm đau VAS (Visual Analog Scale):
0 – 2: Không đau
3 – 4: Đau ít
5 – 6: Đau vừa
7 – 8: Đau nhiều
9 – 10: Đau dữ dội
Trong nghiên cứu này khi VAS > 4 chúng tôi hỗ trợ điều trị đau bằng cách thêm
Midazolam 0,02mg/kg và Fentanyl 1g/kg. Nếu tình trạng đau không cải thiện (VAS
vẫn > 4) thì cần hỗ trợ thêm bằng gây tê tại chỗ (sử dụng Lidocaine 1-2%) hoặc gây
mê toàn thể có đặt nội khí quản.
Theo dõi, ghi nhận dấu hiệu sinh tồn trong lúc phẫu thuật cũng như ghi nhận và xử trí
kịp thời các tai biến, biến chứng xảy ra (nếu có).
Đánh giá mức độ hợp tác của bệnh nhân trong phẫu thuật dưới gây tê vùng bằng 4
mức độ: rất tốt, tốt, được và kém (do phẫu thuật viên đánh giá).
Sau khi phẫu thuật
Bệnh nhân được theo dõi và ghi nhận dấu hiệu sinh tồn, thời gian phục hồi cảm giác
đau cũng như các tai biến, biến chứng do gây tê hoặc do phẫu thuật (nếu có).
Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân về phương pháp vô cảm bằng 4 mức độ: rất
hài lòng, hài lòng, ít hài lòng và không hài lòng.
Xử lý số liệu
Các số liệu cần thu thập được ghi nhận vào bảng thu thập số liệu.
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 13.0 For Windows.
Mối tương quan giữa hai biến được kiểm định bằng test 2 hoặc test t.
Giá trị p < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%.
KẾT QUẢ
Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Từ tháng 07/2007 đến tháng 04/2008 có 75 bệnh nhân tại bệnh viện Ung Bướu
TPHCM được gây tê vùng để phẫu thuật cắt rộng tạo hình với kết quả như sau
Đặc điểm Số trường hợp (%)
Nam / Nữ 28 (37,3) / 47 (62,7)
Tuổi 68,1 14,1 (25-95)*
Cân nặng (kg) 49,1 9,0 (30-70)*
Đặc điểm Số trường hợp (%)
Nghề nghiệp thường
tiếp xúc nhiều với
ánh sáng mặt trời
51 (68)
ASA 1 / 2 / 3
21 (28) / 40 (53,3) / 14
(18,7)
Kích thước bướu
1,9 0,9cm (0,5cm-
5cm)*
Giải phẫu bệnh
Ung thư tế bào đáy 62
(82,7)
Ung thư tế bào gai 13
(17,3)
*Trung bình (tối thiểu-tối đa)
Vị trí bướu
Vị trí Số trường hợp (%)
Mũi 30 (40)
Má 11 (14,7)
Mũi-má 7 (9,3)
Môi 13 (17,3)
Trán 2 (2,7)
Quanh ổ mắt 12 (16)
Một số đặc điểm về vô cảm và phẫu thuật
Các kiểu phong bế và số lần phong bế
Kiểu
TK
trên ổ
mắt
TK
trên
ròng
rọc
TK
mũi
mi
TK
dưới ổ
mắt
TK
cằm
Tổng
cộng
1 bên 5 9 24 53 1 92
2 bên 5 4 20 12 8 49
Số
lần
15 17 64 77 17 190
Số lần phong bế trên một bệnh nhân
Số
lần
1 2 3 4 5 6
Số
TH
(%)
12
(16)
31
(41,3)
17
(22,7)
12
(16)
1
(1,3)
2
(2,7)
Liều thuốc tê Bupivacaine 0,25% sử dụng trung bình cho mỗi bệnh nhân là 18,4 mg
Liều sử dụng trung bình cho một phong bế là 7,3 mg
20 bệnh nhân (26,7%) cần phải gây tê tại chỗ thêm
Mức độ giảm đau trong phẫu thuật
Mức độ giảm đau Số trường hợp (%)
Không đau (VAS 0-2) 37 (49,3)
Đau ít (VAS 3-4) 18 (24)
Đau vừa (VAS 5-6) 15 (20)
Đau nhiều (VAS 7-8) 5 (6,7)
Đau dữ dội (VAS 9-10) 0 (0)
Khảo sát trên 55 trường hợp không phải hỗ trợ gây tê tại chỗ thêm
- Thời gian mất cảm giác trung bình là 10,3 3,9 phút
- Thời gian phẫu thuật trung bình là 47,3 20,0 phút (15-100 phút).
- Thời gian phục hồi cảm giác đau trung bình là 163,2 48,5 phút (90-300 phút).
Thay đổi huyết động học qua các giai đoạn phẫu thuật và hồi sức
Thay đổi huyết động học qua các thời điểm
Thời
điểm
Mạch
(lần/phút)
HATT
(mmHg)
HATTr
(mmHg)
T0 80,7 12,9
155,1
27,5
84,3 12,8
T1 77,3 11,4*
140,4
23,4*
78,8 10,3*
T2 81,7 11,4
143,5
23,3*
81,1 11,3*
T3 81,1 10,7
140,7
24,7*
79,7 11,2*
T5p 79,4 11,0
139,1
23,4*
78,9 10,4*
T10p 79,2 11,1
137,7
24,2*
78,1 10,8*
T15p 78,4 11,0*
137,4
23,5*
77,9 10,9*
T30p 78,1 11,3*
138,9
23,9*
79,0 11,0*
T1g 77,9 12,5*
141,1
23,4*
78,5 10,1*
T2g 78,4 11,5
138,7
22,8*
78,8 10,6*
T3g 79,5 11,0
144,1
20,6*
80,1 9,8*
T4g 74,5 9,2*
135,0
18,0*
78,2 8,0*
T5g 71,4 7,8*
132,3
16,5*
78,1 8,1*
T6g 73,0 7,6*
138,3
15,4*
80,6 6,8*
*p < 0,05 so với thời điểm T0
Ghi chú:
T0: lúc vào phòng mổ
T1: ngay sau tiền mê
T2: ngay sau khi gây tê
T3: ngay sau khi rạch da
T5p: sau khi rạch da được 5 phút
T10p: sau khi rạch da được 10 phút
T15p: sau khi rạch da được 15 phút
T30p: sau khi rạch da được 30 phút
T1g: sau khi phẫu thuật được 1 giờ
T2g: sau khi phẫu thuật được 2 giờ
T3g: sau khi phẫu thuật được 3 giờ
T4g: sau khi phẫu thuật được 4 giờ
T5g: sau khi phẫu thuật được 5 giờ
T6g: sau khi phẫu thuật được 6 giờ
Kết quả gây tê
Mức độ hợp tác của bệnh nhân
Mức độ Số trường hợp (%)
Rất tốt 22 (29,3)
Tốt 43 (57,4)
Mức độ Số trường hợp (%)
Được 10 (13,3)
Kém 0 (0)
Mức độ hài lòng của bệnh nhân
Mức độ Số trường hợp (%)
Rất hài lòng 16 (21,3)
Hài lòng 54 (72)
Ít hài lòng 5 (6,7)
Không hài lòng 0 (0)
Tai biến và biến chứng
Tai biến do phẫu thuật
Ghi nhận 01 trường hợp có khối máu tụ lớn sau phẫu thuật và phải phẫu thuật lại để
cầm máu, điểm chảy máu ghi nhận không liên quan đến gây tê vùng.
Tai biến do gây tê vùng
02 trường hợp phù + tím nhẹ mi trên do phong bế thần kinh trên ổ mắt.
06 trường hợp phù mi trên do phong bế thần kinh mũi mi.
04 trường hợp liệt vận động mắt và phục hồi khi phong bế thần kinh mũi mi hết tác
dụng.
BÀN LUẬN
Kết quả gây tê
Qua 75 bệnh nhân trong nghiên cứu
20 bệnh nhân (26,7%) gây tê vùng thất bại (cần phải gây tê tại chỗ thêm) được thống
kê như sau:
Vị trí
TK
trên ổ
mắt
TK
trên
ròng
rọc
TK
mũi
mi
TK
dưới ổ
mắt
TK
cằm
1 bên 2 3 4 14 0
2 bên 0 0 9 5 1
Thất
bại
1 0 10 19 0
Trong 19 trường hợp phong bế thần kinh dưới ổ mắt thất bại có 10 trường hợp khó
phân biet rõ ràng thất bại là do phong bế thần kinh mũi mi thất bại hay do phong bế
thần kinh dưới ổ mắt thất bại hay do cả 2 phong bế đều thất bại vì vùng phân bố khó
xác định chính xác của thần kinh nào nhất là phẫu thuật ở vùng mũi – má, do đó
chúng tôi xem như là thất bại cả 2.
1 bệnh nhân được gây tê vùng thần kinh trên ổ mắt thất bại liên quan đến phẫu thuật
vùng mi mắt trên do diện phẫu thuật lan ra đến bờ trên phía ngoài ổ mắt.
Theo Eaton JS(Error! Reference source not found.), và Moore KL(Error! Reference source not found.): diện
ngoài mi mắt trên và cung mày được chi phối cảm giác bởi thần kinh lệ và phẫu thuật
ở những vùng này cần phải gây tê tại chỗ thêm hoặc phong bế thêm thần kinh lệ (tại
bờ trên ổ mắt ngang góc mắt ngoài).
10 bệnh nhân gây tê vùng thất bại liên quan đến phong bế thần kinh mũi mi.
Theo Molliex S(Error! Reference source not found.): 4/24 (16%) trường hợp thất bại trong gây tê
vùng của tác giả bao gồm phong bế thần kinh mũi mi kèm thêm phong bế khu trú
nhánh mũi của thần kinh bướm khẩu cái và sự thất bại rất khó xác định liên quan đến
loại phong bế nào vì vùng chi phối cảm giác của thần kinh mũi mi và thần kinh bướm
khẩu cái thì trùng lắp nhau.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ thất bại trong phong bế thần kinh mũi mi còn
cao: 10/75 bệnh nhân (13,3%). Điều này được lý giải là do kinh nghiệm trong việc
thực hiện phong bế thần kinh mũi mi còn hạn chế vì đây là lần đầu chúng tôi áp
dụng phong bế vùng trong phẫu thuật vùng mặt và điểm mốc trong phong bế thần
kinh mũi mi khó xác định hơn so với các điểm mốc còn lại (những điểm mốc này
có thể sờ thấy).
19 bệnh nhân được gây tê vùng thất bại liên quan đến phong bế thần kinh dưới ổ mắt
được thống kê như sau:
7 bệnh nhân được gây tê vùng thần kinh dưới ổ mắt thất bại do vùng phẫu thuật vượt
quá phạm vi chi phối cảm giác của thần kinh dưới ổ mắt, được chia thành 2 nhóm như
sau:
5 trường hợp thất bại do vùng phẫu thuật mở rộng đến vùng má dưới ngoài, đây là
vùng được chi phối cảm giác bởi thần kinh má (nhánh của thần kinh hàm dưới – V3).
Muốn phẫu thuật vùng này cần gây tê tại chỗ thêm hoặc phong bế thần kinh má.
2 trường hợp thất bại do vùng phẫu thuật mở rộng đến vùng má trên ngoài, đây là
vùng được chi phối cảm giác bởi thần kinh tai thái dương (nhánh của thần kinh
hàm dưới – V3) và muốn phẫu thuật vùng này cần phong bế thêm thần kinh tai
thái dương hoặc gây tê tại chỗ thêm.
12 trường hợp phong bế thần kinh dưới ổ mắt thất bại còn lại liên quan đến việc
phong bế thần kinh không đầy đủ do không làm mất cảm giác đầy đủ của 4 vùng
da được chi phối bởi thần kinh dưới ổ mắt: da của bờ ngoài mũi, da mi mắt dưới,
da má (vùng trên trong và một phần vùng dưới trong) và da môi trên. Điều này có
thể được giải thích bởi một số nguyên nhân sau:
Do đặt kim không đúng nên chỉ phong bế được một phần của thần kinh.
Theo Pascal J(Error! Reference source not found.): do thường đặt kim có khuynh hướng tiếp
tuyến với da khi áp dụng phong bế thần kinh dưới ổ mắt nên kim cũng dễ có khuynh
hướng tiếp tuyến với thần kinh nên dễ bị phong bế chỉ một phần thần kinh.
Cung theo Pascal J(Error! Reference source not found.), Lynch MT(Error! Reference source not found.),
Hanke CW(Error! Reference source not found.) cho rằng phong bế thần kinh dưới ổ mắt qua ngả
trong miệng thì đáng tin cậy hơn là ngả qua da bên ngoài. Tuy nhiên trong nghiên cứu
của Lynch MT(Error! Reference source not found.) so sánh vị trí phong bế thần kinh dưới ổ mắt
2 bên với 1 bên thực hiện phong bế qua ngả miệng, bên còn lại thực hiện phong bế
qua ngả qua da bên ngoài. Kết quả là không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa 2 phương pháp.
Kinh nghiệm trong thực hiện phong bế cũng có thể là nguyên nhân của tỷ lệ thất bại
cao.
Đây là lần đầu chúng tôi áp dụng thực hiện phong bế thần kinh dưới ổ mắt nên không
có nhiều kinh nghiệm cho việc phong bế cũng như chọn đường vào.
Theo Pascal J(Error! Reference source not found.): 12/13 trường hợp phong bế thần kinh dưới ổ
mắt thất bại trong nghiên cứu của tác giả là do bác sĩ nội trú thực hiện, những người
này chỉ có kinh nghiệm thực hiện phong bế ở mỗi vị trí < 5 lần. Ngược lại, những bác
sĩ gây mê được đào tạo và thực hiện ít nhất là 20 lần tại mỗi vị trí phong bế thì tỷ lệ
thành công cao hơn.
Để đạt tỷ lệ thành công cao hơn, Bernard JM(Error! Reference source not found.) đã dùng phản
xạ nháy mắt để định vị các nhánh thần kinh của thần kinh sinh ba. Tác giả thực hiện
phong bế thần kinh dưới ổ mắt với kích thích điện qua kim, khi kim đặt đúng vị trí
thần kinh dưới ổ mắt, kích thích điện sẽ được đáp ứng bởi một dị cảm nhẹ ở mi mắt
dưới cùng bên và một phản xạ nháy mắt ở cả hai bên.
Thay đổi huyết động học qua các giai đoạn
Mạch
Mạch trung bình lúc vào phòng mổ là 81 lần/phút.
Sau khi tiền mê mạch trung bình giảm còn 77 lần/phút, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05), điều này là do tác dụng của Midazolam và Fentanyl giúp bệnh
nhân bớt lo lắng và có thể ngủ nhẹ.
Sau khi gây tê có thể bệnh nhân đau do thủ thuật phong bế thần kinh nên mạch trung
bình tăng lên 82 lần/phút