Tin học và điện tử viễn thông là hai thành phần cốt lõi của công nghệ thông tin nói chung và mạng số liệu nói riêng. Trong những năm gần đây, nhiều dự án xây dựng và phát triển phát triển mạng số liệu ở nước ta đã triển khai theo giải pháp tổng thể trong đó tích tích hạ tầng truyền thông máy tính. Mạng máy tính nói chung và mạng cục bộ (LAN) nói riêng không còn là một thuật ngữ thuần tuý khoa học mà đang trở thành một đối tượng nghiên cứu và ứng dụng của nhiều người có nghề nghiệp và phạm vi hoạt động khác nhau.
46 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ghép nối mạng LAN bằng giao thức TCP/IP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MụC LụC
Mở đầu………………………………………………………………….3
Mở Đầu
Tin học và điện tử viễn thông là hai thành phần cốt lõi của công nghệ thông tin nói chung và mạng số liệu nói riêng. Trong những năm gần đây, nhiều dự án xây dựng và phát triển phát triển mạng số liệu ở nước ta đã triển khai theo giải pháp tổng thể trong đó tích tích hạ tầng truyền thông máy tính. Mạng máy tính nói chung và mạng cục bộ (LAN) nói riêng không còn là một thuật ngữ thuần tuý khoa học mà đang trở thành một đối tượng nghiên cứu và ứng dụng của nhiều người có nghề nghiệp và phạm vi hoạt động khác nhau.
Là một sinh viên trước ngưỡng cửa tốt nghiệp, nhìn thấy tầm quan trọng của các mạng LAN và việc ghép nối chúng thành một mạng đa dịch vụ. Trong đợt làm đồ án này, dưới sự hướng dẫn, động viên của thầy giáo Nguyễn Khắc Hưng, em đã chọn đề tài "Ghép nối mạng LAN bằng giao thức TCP/IP" .
Đây là lần đầu thực hiện một đề tài lớn, chắc chắn không tránh khỏi những bỡ ngỡ, thiếu sót. Em rất mong được sự đánh giá, quan tâm và giúp đỡ của các thầy, cô giúp em thực hiện tốt được đồ án.
Em xin chân thành cảm ơn !
ghép nối các mạng lan bằng giao thức tcp/ip
CHươNG I
Tìm hiểu Về MạNG CụC Bộ (LAN)
Và NHU CầU GHéP NốI CHúNG
Giới thiệu về mạng máy tính.
Về cơ bản, một mạng máy tính là một số các máy tính được kết nối với nhau theo một cách nào đó. Khác với các trạm truyền hình chỉ gửi thông tin đi, các mạng máy tính luôn hai chiều, sao cho khi máy tính A gửi thông tin tới máy tính B thì B có thể trả lời lại cho A.
Nói một cách khác, một số máy tính được kết nối với nhau và có thể trao đổi thông tin cho nhau gọi là mạng máy tính.
Mạng máy tính có thể phân bổ trên một vùng lãnh thổ nhất định và có thể phận bổ trong phạm vi một quốc gia hay quốc tế.
Dựa vào phạm vi phân bổ của mạng người ta có thể phân ra các loại mạng như sau.
* Mạng cục bộ (LAN : LocaIArea Network) : kết nối các máy tính trong một khu vực bán kính hẹp, thông thường khoảng vài trăm mét. Kết nối được thực hiện thông qua các môi trường truyền thông tốc độ cao, ví dụ: cáp đồng trục, cáp xoắn đôi hay cáp quang. LAN thường được sử dụng trong nội bộ một cơ quan tổ chức. . .Các LAN có thể được kết nối với nhau thành WAN.
* Mạng đô thị (MAN : MetropoIitan Area Network) : kết nối các máy tính trong phạm vi một thành phố. Kết nối này đươc thực hiện thông qua các môi trường truyền thông tốc độ cao (50- 100Mbit/s).
* Mạng diện rộng (WAN : Wide Area Network) : kết nối máy tính trong nội bộ các quốc gia hay giữa các quốc gia trong cùng một châu lục. Thông thường các kết nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông. Các WAN có thể được kết nối với nhau thành GAN hay tự nó đã là GAN.
* Mạng toàn cầu (GAN : GlobaIArea Network) : kết nối máy tính từ các châu lục khác nhau. Thông thường kết nối này được thực hiên thông qua mạng viễn thông và vệ tinh.
Trong các khái niệm nói trên, WAN và LAN là hai khái niệm hay được sử dụng nhất.
Mạng cục bộ (LAN)
Chức năng của mạng LAN
Mạng LAN là hệ thống tốc độ cao được thiết kế để kết nối các máy tính và các thiếy bị xử lý dữ liệu khác cùng hoạt động với nhau trong một khu vực địa lý nhỏ như ở một tầng của toà nhà, hoặc trong một toà nhà… Một số mạng LAN có thể kết nối lại với nhau trong một khu làm việc.
Các mạng LAN trở nên hữu ích vì nó cho phép những người sử dụng dùng chung tài nguyên quan trọng như máy in, ổ CDROM, các phần mềm ứng dụng và những thông tin cần thiết khác. Trước khi phát triển công nghệ LAN các máy tính là độc lập với nhau, bị hạn chế bởi số lượng các chương trình tiện ích, sau khi kết nối mạng rõ ràng hiệu quả của chúng tăng lên gấp bội. Để tận dụng hết những ưu điểm của mạng LAN người ta đã kết nối các LAN riêng biệt vào mạng chính yếu diện rộng WAN.
Các kiểu mạng (Topology)
Topology của mạng là cấu trúc hình học không gian mà thực chất là cách bố trí phần tử của mạng cũng như cách nối giữa chúng với nhau
Mạng hình sao (Star Topology)
ở dạng hình sao, tất cả các trạm được nối vào một thiết bị trung tâm có nhiệm vụ nhận tín hiệu từ các trạm và chuyển đến trạm đích của tín hiệu. Tuỳ theo yêu cầu truyền thông trong mạng, thiết bị trung tâm có thể là một bộ chuyển mạch (switch), một bộ chọn đường (router) hoặc đơn giản là một bộ phân kênh (hub) (Hình 1- l).
Vai trò thực chất của thiết bị trung tâm này chính là thực hiện việc "bắt tay" giữa các cặp trạm cần trao đổi thông tin với nhau, thiết lập các liên kết điểm - điểm (point to point) giữa chúng.
HUB
Hình 1.1. Star Topology với Hub ở trung tâm
* Ưu điểm của ,của Star Topology :
+ Lắp đặt đơn giản, dễ dàng cấu hình lại (thêm, bớt trạm), dễ dàng kiểm soát và khắc phục sự cố. Đặc biệt do sử dụng liên kết điểm - điểm nên tận dụng được tối đa tốc độ của đường truyền vật lý.
* Nhược điểm của Star Topology :
+ Độ dài đường truyền nối một trạm với thiết bị trung tâm bị hạn chế (trong vòng 100m với công nghệ hiện tại).
Mạng mạch vòng (Ring Topology)
data
repeater
Hình 1-2 : Ring Topology.
ở dạng vòng, tín hiệu được lưu chuyển trên vòng theo một chiều duy
nhất. Mỗi trạm của mạng được nối với vòng qua một bộ chuyển tiếp (repeater) có nhiệm vụ nhận tín hiệu rồi chuyển đến trạm kế tiếp trên vòng. Như vậy tín hiệu được lưu chuyển trên vòng theo một chuỗi liên tiếp các liên kết điểm- điểm giữa các repeater (Hình 1-2). Cần phải có một giao thức điều khiển việc cấp phát "quyền!' được truyền dữ liệu trên vòng cho các trạm có nhu cầu.
Để tăng độ tin cậy của mạng, tùy trường hợp người ta có thể lắp đặt dư thừa các tuyến đường truyền trên vòng, tạo thành một dạng vòng dự phòng.
Khi đường truyền trên vòng chính bị sự cố thì vòng phụ này sẽ được sử dụng, với chiều đi của tín hiệu ngược với chiều đi trên mạng chính.
* Ưu, nhựợc diểm của Ring Topo]ogy :
Tương tự dạng Star, điều khác biệt quan trọng là dạng Ring đòi hỏi giao thức truy nhập đường truyền khá phức tạp.
Mạng tuyến tính (Bus Topology)
T-connector
Bus
Termiator
Termiator
Hình 1.3.Bus Topology
ở dạng bus, tất cả các trạm phân chia chung một đường truyền chính
(bus). Đường truyền chính này được giới hạn hai đầu bởi một loại đầu nối đặc biệt gọi là Temlinator. Mỗi trạm được nối vào bus qua một đầu nối chữ T (T- connector) hoặc một bộ thu phát (transceiver) (Hình 1-3).
Khi một trạm truyền dữ liệu, tín hiệu được quảng bá (broadcast) trên hai chiều của bus, có nghĩa là mọi trạm còn lại đều có thể nhận tín hiệu trực tiếp.
Đối với các bus một chiều thì tín hiệu chỉ đi về một phía, lúc đó temlinator phải được thiết kế sao cho các tín hiệu phải được "dội lại!' trên bus để có thể đến được các trạm còn lại ở phía bên kia. Như vậy, đối với topology bus, dữ liệu được truyền dựa trên các liên kết điểm - nhiều điểm (point to multipoint) hay quảng bá (broadcast). .
Dễ thấy rằng trong trường hợp này cũng cần phải có giao thức để quản lý truy nhập đường truyền. Tuy nhiên mức độ quản lý có thể hoặc là gần như thả nổi (truy nhập ngẫu nhiên) hoặc rất chặt chẽ (truy nhập có điều khiển), mỗi cách đều có những ưu, nhược điểm riêng.
Star, Bus, Ring là những topology cơ bản, phổ dụng nhất. Trong nhiều trường hợp, do thực tế địa hình người ta thường chọn một topology “lai"- là tổ hợp của những cơ bản trên.
Đường truyền vật lý
Các thiết bị gắn với mạng LAN đều dùng chung một phương tiện truyền tin đó là dây cáp, cáp thường đùng hiện nay là: Cáp đồng trục ( Coaxial cable), cáp dây xoắn (shielded twisted pair, UTP -STP), cáp quang ( Fiber optic)…
Mỗi loại dây cáp đều có tính năng khác nhau.
Cáp đồng trục (Coaxial cable)
Cáp đồng trục gồm có 2 phần : ống trục bên ngoài và một dây lõi bên
trong. Dây lõi và ống trục bên ngoài được đặt cách đều nhau và cách li bởi
phần cách điện. Trục bên ngoài được bao bởi một lớp áo hoặc vỏ bọc. Cáp
đồng trục thường có độ lớn từ 0,4 linches.
Vỏ
Vỏ cách điện
Lớp chống nhiễu
Cable đồng trục
Hình 1-4 : Cáp đồng trục.
Cáp đồng trục có độ suy hao ít hơn so với các loại cáp đồng khác, ví
dụ như cáp xoắn đôi.
Cáp không có vỏ bọc chống nhiễu UTP (Unshielded Twisted Pair)
Tính năng của UTP tương tự như STP (cáp có vỏ bọc chống nhiễu), chỉ kém về khả năng chống nhiễu và suy hao do không có vỏ bọc kim.
Cable xoắn đôi UTP
Cặp 3: Green While - Green
Cặp 4: Brow While -Brow
Vỏ bọc
Cặp 1: Blue While - Blue
Cặp 2: Orege While -Orage
Hình 1-5 : Cáp xoắn đôi UTP.
Cáp có vỏ bọc chống nhiễu STP (Shielded Twisted Pair)
Lớp bọc kim bên ngoài cáp xoắn đôi có tác dụng chống nhiễu điện từ. Có nhiều loại cáp STP, có loại chỉ gồm 1 đôi dây xoắn ở trong vỏ bọc kim, nhưng cũng có loại gồm nhiều đôi dây xoắn.
Độ dài chạy cáp STP thường giới hạn trong vài trăm mét.
Cáp quang (Fiber optic cable)
Cáp quang gồm những sợi nhỏ, mỏng (khoảng 2- 115 mm) và dẻo có
khả năng truyền dẫn ánh sáng. Một cáp sợi quang có hình trụ gồm 3 phần đồng tâm : lõi, lớp áo bao và vỏ bảo vệ ngoài. Lớp vỏ bảo vệ ngoài là chất dẻo hoặc các vật liệu mềm có độ tổn thất quang lớn, dùng để chống ẩm và ăn mòn, chống ảnh hưởng của môi trường đồng thời chống xuyên âm với các sợi kề cạnh
Nhìn chung, yếu tố quyết định sử dụng loại cap nào là phụ thuộc vào yêu cầu tốc độ truyền tin, khoảng cách đặt các thiết bị, yêu cầu an toàn thong tin và cấu hình của mạng,…Ví dụ mạng Ethernet 1- Base-T là mạng dùng kênh truyền giải tần cơ bản với thông lượng 10Mbit/s theo tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC 8802.3 nối bằng đôi dây cáp xoắ không bọc kim (UTP) trong Topology hình sao.
Các phương pháp truy nhập đường truyền vật lý
Đối với topo dạng star, khi một liên kết đã được thiết lập giữa hai trạm thì thiết bị trung tâm sẽ đảm bảo đường truyền được dành riêng trong suốt cuộc truyền. Tuy nhiên đối với các topo dạng bus và ring thì chỉ có một đường truyền duy nhất nối tất cả các trạm với nhau, bởi vậy cần phải có các quy tắc chung cho tất cả các trạm nối vào mạng để đảm bảo rằng đường truyền được truy nhập và sử dụng một cách tốt đẹp. Có nhiều phương pháp khác nhau để truy cập đường truyền vật lý, được phân thành hai loại : các phương pháp truy cập ngẫu nhiên (random access) và các phương pháp truy cập có điều khiển (contro]Ied access). Các phương pháp chủ chốt thuộc hai loại trên được liệt kê trong hình 1-6
Radom Access
Controlled Access
CSMA
CSMA/CD
Register insertion
Slotted Ring
Collision
Avoidance
Token
Bus
Token
Ring
Hình 1.6. Các phương pháp truy nhập đường truyền
CSMA/CD
CSMA (Canier Sense Multiple Access Phương pháp đa truy nhập sử dụng sóng mang). Đây là phương pháp truy nhập ngẫu nhiên được sử dụng cho topo dạng bus, trong đó tất cả các trạm của mạng được nối trực tiếp vào bus . Mọi trạm đều có thể truy nhập vào bus chung (đa truy nhập) một cách ngẫu nhiên và do vậy rất có thể dẫn đến xung đột (hai hoặc nhiều trạm đồng thời truyền dữ liệu).
Để có thể phát hiện xung đột, CSMA/CD hay còn gọi là LWT (Listen
While Talk - Nghe trong khi nói) đã bổ xung thêm quy tắc :
+ Khi một trạm đang truyền, nó vẫn tiếp tục "nghe” đường truyền. Nếu phát hiện thấy xung đột thì nó ngừng ngay việc truyền nhưng vấn tiếp tục gửi tín hiệu sóng mang thêm một thời gian nữa để đảm bảo rằng tất cả các trạm trên mạng đều có thể "nghe” được sự kiện xung đột đó.
+ Sau đó trạm chờ đợi trong một thời đoạn ngẫu nhiên nào đó rồi thử truyền lại theo quy tắc của CSMA.
Token
Đây là giao thức thông dụng sau CSMA/CD được dùng trong các LAN có cấu trúc vòng (Ring). Trong phương pháp này, khối điều khiển mạng hoặc token được truyền lần lượt từ trạm này đến trạm khác. Token là một khối dữ liệu đặc biệt. Khi một trạm đang chiếm token thì nó có thể phát đi một gói dữ liệu. Khi phát hết gói dữ liệu cho phép hoặc không còn gì để phát nữa thì trạm đó lại gửi token sang trạm kế tiếp.
* Token Bus (Bus với thẻ bài)
Nguyên lý của phương pháp này là : để cấp phát quyền truy nhập đường truyền cho các trạm đang có nhu cầu truyền dữ liệu, một thể bài được lưu chuyển trên một vòng logic thiết lập bởi các trạm đó. Khi một trạm nhận được thẻ bài thì có quyền sử đường truyền trong một thời đoạn xác định trước. Trong thời đoạn đó nó có thể truyền một hoặc nhiều đơn vị dữ liệu. Khi đã hết dữ liệu hoặc hết thời đoạn cho phép, trạm phải chuyển thẻ bài đến trạm tiếp theo trong vòng logic. Như vậy công việc phải làm đầu tiên là thiết lập vòng logic (hay còn gọi là vòng ảo) bao gồm các trạm đang có nhu cầu truyền dữ liệu được xác định vị trí theo một chuỗi thứ tự mà trạm cuối cùng của chuỗi sẽ tiếp liền sau bởi trạm đầu tiên. Mỗi trạm được biết địa chỉ của các trạm kế trước và sau nó. Thứ tự của các trạm trên vòng logic có thể độc lập với thứ tự vật lý Các trạm không hoặc chưa có nhu cầu truyền dữ liệu thì không được đưa vào vòng logic và chúng chỉ có thể tiếp nhận dữ liệu.
Hình 1-7 minh hoạ một vùng logic được thiét lập trên một mạng bus.
A
B
C
D
H
G
F
E
Đường truyền vật lý
Vòng logic
Hmh 1-7 : Ví dụ vòng logic trong mạng bus.
* Token Ring (Ring với thẻ bài)
Token Ring (vòng với thẻ bài) : phương pháp này cũng dựa trên nguyên lý dùng thẻ bài để cấp phát quyền truy nhập đường truyền. Nhưng ở
đây thẻ bài lưu chuyển theo vòng vật lý chứ không cần thiết lập vòng logic như đối với phương pháp trên.
Thẻ bài là một đơn vị dữ liệu đặc biệt trong đó có một bit biểu diễn trạng thái sử dụng của nó (bận hoặc rỗi). Một trạm muốn truyền dữ liệu thì
phải đợi đến khi nhận được một thẻ bài "rỗi" (free). Khi đó trạm sẽ đổi bít
trạng thái của thẻ bài thành “bận" (busy) và truyền một đơn vị dữ liệu cùng
với thẻ bài đi theo chiều của vòng. Giờ đây không còn thẻ bài "rỗi" trên vòng nữa, do đó các trạm có dữ liệu cần truyền cũng phải đợi. Dữ liệu đến trạm đích sẽ được sao lại, sau đó cùng với thẻ bài đi tiếp cho đến khi quay về trạm nguồn. Trạm nguồn sẽ xoá bỏ dữ liệu đổi bít trạng thái trở về "rỗi “ và cho lưu chuyển tiếp trên vòng để các trạm khác có thể nhận được quyền truyền dữ liệu. Qủá trình mô tả ở trên được minh hoạ trong hình 1-8
free token
A
B
C
D
nguồn
Đích
busy token
A
B
C
D
nguồn
Đích
Đata
A
B
C
D
nguồn
Đích
A có dữ liệu cần chuyển đến C. Nhận được thẻ bài “rồi” , nó đổi bít trạng thái thành “bận” và truyền dữ liệu đi cùng với thẻ
Trạm đích C sao cho dữ liệu dành cho nó và chuyển tiếp dữ liệu cùng thẻ bài về hướng trạm nguồn A sau khi đã gửi thông tin báo nhận và đơn vị dữ liệu
A nhận được dữ liệu cùng thẻ bài quay về, đổi bít trạng thái của thẻ bài thành “rỗi” và chuyển tiếp trên vòng, xoá dữ liệu đã truyền.
Hình 1-8 : Hoạt động của phương pháp Token Ring.
* So sánh CSMA/CD với các phương pháp dùng thẻ bài :
+ Độ phức tạp của các phương pháp dùng thẻ bài đều lớn hơn rất nhiều so với CSMA/CD. Những công việc mà một trạm phải làm trong phương pháp CSMA/CD đơn giản hơn nhiều so với hai phương pháp dùng thẻ bài.
+ Hiệu quả của các phương pháp dùng thẻ bài không cao trong điều kiện tải nhẹ : một trạm có thể phải đợi khá lâu mới đến lượt (có thẻ bài).
+ Tuy nhiên các phương pháp dùng thẻ bài cũng có những ưu điểm quan trọng:
- Đó là khả năng điều hoà lưu thông trong mạng hoặc bằng cách cho
phép các trạm truyền số lượng đơn vị dữ liệu khác nhau khi nhận được thẻ
bài hoặc bằng cách lập chế độ ưu tiên cấp phát thẻ bài cho các trạm cho trước.
- Đặc biệt các phương pháp dùng thẻ bài có hiệu quả cao hơn CSMA/CD trong các trường hợp tải nặng.
Các thiết bi mạng
Bộ giao tiếp mạng (NIC)
Việc kết nối các máy tính với một dây cáp được dùng như một phương tiện truyền tin chung cho tất cả các máy tính. Công việc kết nối vật lý vào mạng được thực hiện bằng cách cắm một card giao tiếp mạng NIC ( Network interface Card) vào trong máy tính và nối nó với cáp mạng. Sau khi kết nối vật lý đã hoàn tất, quản lý việc truyền tin giữa các trạm trên mạng tuỳ thuộc và phần mềm mạng.
Đầu nối của NIC với dây cáp có nhiều loại ( phụ thuộc vào cáp mạng), hiện nay có một số NIC có hai hoặc ba loại đầu nối.
Bộ tiếp sức (Repeater)
Trong mạng, khi tín hiệu di chuyển trên đường truyền, chúng sẽ bị biến dạng, không nhận diện được hoặc nhận diện sai. Và do đó để mở rộng mạng đáp ứng nhu cầu phát triển thì cần có thiết bị cho phép truyền tín hiệu đi xa, đó chính là bộ tiếp sức.
Repeater
Hình 1-7 : Mở rộng LAN bằng Repeater.
Bộ tiếp sức hoạt động chính ngay tại lớp Vật lý theo mô hình OSI.
Bộ tập chung tín hiệu (Hub)
Hub là bộ chia hay còn gọi là bộ tập chung tín hiệu, nó là thiết bị kết nối, bắt tay giữa những người sử dụng có nhu cầu trao đổi thông tin. Hub đưa các gói dữ liệu mà nó nhận được từ một cổng tới tất cả các cổng còn lại. Do đó Hub làm việc tại lớp Physical (Vật lý) trong mô hình OSI.
Hub là bộ chia (hay cũng được gọi là bộ tập chung : concentrators ) dùng để đấu mạng.
Bộ chuyển mạch (Switch)
Switch là một thiết bị làm việc ở lớp Data Link (liên kết dữ liệu) theo mô hình OSI.
- Switch thông minh hơn Hub và nó cung cấp nhiều giải thông hơn Hub.
- Switch có thể kết hợp nhiều đoạn mạng hoặc các nhóm LAN, có khả năng phân chia mạng, giúp người quản trị mạng có thể tạo mạng ảo (VLAN -Virtual LAN) nhằm cải thiện lưu lượng mạng và hạn chế lỗi.
Switch chỉ đưa gói dữ liệu tới cổng thích hợp dựa vào Header của gói đó. Để ngăn chặn việc truyền tới các cổng khác, Switch thiết lập một kết nối tạm thời giữa cổng gói truyền đến và cổng gói muốn đến và kết nối này được huỷ bỏ khi việc truyền dữ liệu kết thtíc, chính vì thế mà lưu lượng qua mạng nhiều hơn Hub.
Bộ điều chế và giải điều chế (Modem)
Modem (Modulation/Demodulation) là thiết bị có chức năng chuyển đổi tín hiệu số thành tín hiệu tượng tự và ngược lại (digital analog) để kết nối các máy tính qua đường điện thoại.
Modem cho phép trao đổi thư điện tử, truyền tệp, truyền fax và trao đổi dữ liệu theo yêu cầu.
Lưu ý :
Modem không thể dùng để nối các mạng xa với nhau và trao đổi dữ liệu trực tiếp được. Nói cách khác, Modem không phải là một thiết bị lên mạng (intemetwork device) như là Router. Tuy nhiên Modem có thể được dùng kết hợp với một Router để nối kết các mạng qua mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN).
Modem có thể lắp ngoài hoặc lắp ngay trong máy, với các chuẩn khác nhau quy định về tốc độ và tính năng.
Cầu nối (Bridge)
Cầụ nối có nhiều điểm tương đồng với cả Repeater lẫn Router, Bridge hoạt động tại lớp Data Link trong mô hình OSI. Một cầu nối có một thiết bị độc lập có hai mạch giao tiếp mạng hoặc một máy trạm được hoàn toàn cho chức năng cầu nối.
Chức năng của Brige là liên kết hai LAN với nhau (Hình 1. 8) và thực
hiện việc chọn lọc, lựa những thông tin luân chuyển qua nó một cách thông
minh. Thiết bị này tiếp nhận những thông tin truyền tới từ một trong hai mạch giao tiếp rồi chuyển tiếp một cách có chọn lọc thông tin đó "ngang qua cầu “nối” :
- Tăng số lượng máy tính trên mạng,
- Giảm hiện tượng tắc nghẽn do số lượng máy tính nối vào mạng quá nhiều.
- Nối kết các phương tiện Vật lý khác nhau như dây xoắn đôi và cáp đồng trục.
- Nối kết các đoạn mạng khác nhau như Ethemet, Token Ring và truyền gói dữ liệu giữa chúng.
Bridge
LANB
LANA
Hình 1- 8 : Nối hai mạng cục bộ bằng một Bridge.
Bộ định tuyến (Router)
Trong môi trường gồm nhiều đoạn mạng với giao thức và kiến trúc mạng khác nhau, cầu nối có thể không đảm bảo truyền thông nhanh trong tất cả các đoạn mạng. Mạng có độ phức tạp lớn cán có một thiết bị không những biết địa chỉ của mỗi đoạn mạng mà còn phải biết quyết định tuyến đường đi tốt nhất để truyền dữ liệu và sàng lọc lượng phát rộng trên mạng cục bộ. Bộ định tuyến hoạt động tại tầng mạng (Network) trong mô hình OSI. Điều đó có nghĩa chúng có thể chuyển đổi và định tuyến gói dữ liệu qua nhiều mạng. Router đọc thông tin địa chỉ mạng trong gói và một số thông tin khác, dùng thông tin này để cải thiện việc phân phát gói dữ liệu. Các bộ định tuyến có thể chia sẻ thông tin trạng thái và thông tin định tuyến với nhau và sử dụng thông tin này bỏ qua các kết hỏng và chậm.
Cổng giao tiếp (Gateway)
Gateway cho phép truyền thông giứa các kiến trúc mạng và môi trường khác nhau. Chúng đóng gói lại và biến đổi dữ liệu được truyền từ môi trường này đến môi trường khác sao cho các môi trường có thể hiểu dữ liệu của nhau.
Quản lý mạng bằng một số HĐH phổ biến.
Hệ điều hành UNIX
Đây là hệ điều hành đa nhiệm; đa người sử d