Trong xu thế mở cửa của nền kinh tế hiện nay, hệ thống ngân hàng đang tiến hành công cuộc đổi mới, hiện đại hoá trong quản lý và hoạt động nghiệp vụ. Ngân hàng là "mạch máu" kinh tế quan trọng cấu thành nên sự vận động liên tục của cả nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ - tài chính theo chế độ tự chủ và hạch toán kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Vốn, công nghệ, nhân lực và khách hàng là những nhân tố cấu thành cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh. Huy động vốn, sử dụng vốn an toàn hiệu quả và không ngừng phát triển vốn là chức năng và phương châm chỉ đạo hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Nếu nguồn vốn tự có là tiền đề cho khởi sự hoạt động kinh doanh, mức độ tự chủ và sự an toàn kinh doanh thì nguồn vốn huy động là chủ yếu thực hiện mức độ mở rộng hoạt động kinh doanh, giữ vai trò quyết định đảm bảo cơ sở tài chính trong kinh doanh. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đồng thời thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế, ngân hàng thương mạiphải mở rộng hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn, cải tiến các phương thức thu hút tiền gửi nhàn rỗi trong dân cư. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn, chiến lược vốn và chiến lược khách hàng bao giờ cũng là nền tảng đối với sự thành bại của hoạt động ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn, ổn định vững chắc với những khách hàng lớn và đông đảo như con tàu lớn trên biển cả. Nó xác định vị thế trên thị trường, là sự đảm bảo cạnh tranh giành thắng lợi. Một trong những công cụ giúp cho ngân hàng thực hiện được mục tiêu trên là vấn đề đa dạng hoá, cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu phong phú của khách hàng gửi tiền hay đầu tư kiếm lời.
Tuy nhiên tình hình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi ở nước ta còn rất hạn chế và tỷ lệ rất thấp. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa huy động hết tiềm lực về vốn trong dân cư. Do đó việc mở rộng các tài khoản tiền gửi nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong xã hội, tạo cho người dân có thói quen gửi và thanh toán tiền tại ngân hàng là nhiệm vụ có tầm quan trọng cần phải thực hiện rộng rãi nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời bắt kịp xu thế nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Cho nên việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp giải quyết những tồn tại trong việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là một vấn đề cấp thiết trong điều kiện ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường.
Xuất phát từ nhận thức về vai trò của nghiệp vụ huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, em đã mạnh dạn chọn đề tài tốt nghiệp của mình là: "Giải pháp cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ninh".
90 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trong xu thế mở cửa của nền kinh tế hiện nay, hệ thống ngân hàng đang tiến hành công cuộc đổi mới, hiện đại hoá trong quản lý và hoạt động nghiệp vụ. Ngân hàng là "mạch máu" kinh tế quan trọng cấu thành nên sự vận động liên tục của cả nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ - tài chính theo chế độ tự chủ và hạch toán kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Vốn, công nghệ, nhân lực và khách hàng là những nhân tố cấu thành cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh. Huy động vốn, sử dụng vốn an toàn hiệu quả và không ngừng phát triển vốn là chức năng và phương châm chỉ đạo hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Nếu nguồn vốn tự có là tiền đề cho khởi sự hoạt động kinh doanh, mức độ tự chủ và sự an toàn kinh doanh thì nguồn vốn huy động là chủ yếu thực hiện mức độ mở rộng hoạt động kinh doanh, giữ vai trò quyết định đảm bảo cơ sở tài chính trong kinh doanh. Để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đồng thời thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế, ngân hàng thương mạiphải mở rộng hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn, cải tiến các phương thức thu hút tiền gửi nhàn rỗi trong dân cư. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn, chiến lược vốn và chiến lược khách hàng bao giờ cũng là nền tảng đối với sự thành bại của hoạt động ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn, ổn định vững chắc với những khách hàng lớn và đông đảo như con tàu lớn trên biển cả. Nó xác định vị thế trên thị trường, là sự đảm bảo cạnh tranh giành thắng lợi. Một trong những công cụ giúp cho ngân hàng thực hiện được mục tiêu trên là vấn đề đa dạng hoá, cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu phong phú của khách hàng gửi tiền hay đầu tư kiếm lời.
Tuy nhiên tình hình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi ở nước ta còn rất hạn chế và tỷ lệ rất thấp. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa huy động hết tiềm lực về vốn trong dân cư. Do đó việc mở rộng các tài khoản tiền gửi nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong xã hội, tạo cho người dân có thói quen gửi và thanh toán tiền tại ngân hàng là nhiệm vụ có tầm quan trọng cần phải thực hiện rộng rãi nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời bắt kịp xu thế nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Cho nên việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp giải quyết những tồn tại trong việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là một vấn đề cấp thiết trong điều kiện ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường.
Xuất phát từ nhận thức về vai trò của nghiệp vụ huy động vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, em đã mạnh dạn chọn đề tài tốt nghiệp của mình là: "Giải pháp cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ninh".
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Hệ thống hoá kiến thức, lý luận cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Phân tích thực trạng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ninh trong những năm gần đây. Qua đó rút ra những kết quả đã đạt được và những tồn tại cần khắc phục.
Đề xuất một số giải pháp cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cuờng huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ninh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Hệ thống hoá lý luận về vai trò của tài khoản tiền gửi, đồng thời đề xuất giải pháp cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Ninh giai đoạn từ năm 2001 - 2003.
Cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là một vấn đề cấp thiết mang tính lâu dài. Do kiến thức, kinh nghiệm thực tế và thời gian hạn hẹp cho nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong tài khoản tiền gửi nội tệ đối với các tổ chức kinh tế và tiết kiệm cá nhân. Số liệu chỉ khai thác trong thời gian từ năm 2001 đến nay về hoạt động tiền gửi tại NHNo & PTNT Quảng Ninh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cương huy động vốn của NHTM.
Xuất phát từ số liệu hoạt động thực tế hiện nay, sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... Từ đó đưa ra các giải pháp cải tiến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi phù hợp với NHNo & PTNT Quảng Ninh.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.
Chương II: Thực trạng công tác mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHNo & PTNT Quảng Ninh.
Chương III: Các giải pháp mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Quảng Ninh.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô Nguyễn Hương Giang, các thầy cô giáo bộ môn và tập thể phòng kế toán NHNo & PTNT Quảng Ninh đã giúp em hoàn thành luận văn này.Do kiến thức, kinh nghiệm không nhiều và trình độ hiểu biết của một sinh viên còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn và mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để đề tài hoàn thiện hơn.
Chương I: LÝ LUẬN VỀ VIỆC MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN TIỀN GỬI
I. TỔNG QUAN VỀ NHTM:
1.: NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế:
1.1: Khái niệm của NHTM:
NHTM còn được gọi là ngân hàng ký thác, là hình thái ngân hàng ra đời sớm nhất, một sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá và tồn tại tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội. NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như chúng ta đã biết, ngân hàng xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại. Ban đầu chỉ là việc đổi tiền của các thương nhân cho các nhà buôn, dần dần có uy tín các thương nhân này giữ hộ tiền, thanh toán nội bộ và do tích luỹ được nhiều tiền nên họ kiêm luôn cả cho vay. Cuối thế kỷ XVIII, ở các nước Tây Âu, các ngân hàng dần dần được thành lập mới hoặc chuyển từ các ngân hàng cho vay nặng lãi. Với sự phát triển kinh tế hàng hoá đã thúc đẩy sự hình thành ngân hàng phát hành tiền thống nhất các tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ.
Có nhiều cách định nghĩa về NHTM:
Theo Luật ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: "Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm..."
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: "Được coi là ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở náo hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính". Hay như Luật ngân hàng của Ân Độ 1950, được bổ sung 1959 đã nêu: "Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư".
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các NHTM đều có chung một tính chất, đó là: việc nhận tiền ký thác, tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính ngân hàng.
Ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, xuất hiện nhiều hình thức sở hữu và đan xen lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Để quản lý và hướng dẫn hoạt động cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, pháp lệnh số 38 ngày 24/5/1990 viết: "NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của các khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng nó để cho vay thực hiện nhiệm vụ chiết khấu các phương tiện thanh toán". Theo khoản 2 điều 1 Nghị định do Chính phủ ban hành ngày 12/9/2000 quy định: "NHTM là ngân hàng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan, vì mục tiêu lợi nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà Nước".
Qua một quá trình phát triển lâu dài cùng với thời gian, hoạt động của NHTM ngày càng phát triển phong phú và đa dạng hơn. Là tổ chức trung gian tài chính, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người đi vay trong quan hệ tín dụng với các chủ thể của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, việc thừa vốn, thiếu vốn thường xuyên xảy ra đối với các doanh nghiệp, nhưng tại một thời điểm có người thừa vốn sẽ xuất hiện nhu cầu cho vay lấy lãi, lại có những người thiếu vốn kinh doanh. Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng thu hút mọi khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nền kinh tế dưới nhiều hình thức, làm cho đồng tiền luôn ở trạng thái vận động mang lại lợi nhuận đồng thời góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế.
Với những người có tiền nhàn rỗi được ngân hàng huy động về dưới dạng tiền gửi hay bán các chứng khoán, các dịch vụ cho họ. Ngân hàng đưa ra các điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền, trả các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo thời hạn gửi tiền, tính chất của tiền đó.
Với những người có nhu cầu về vốn, ngân hàng cho họ vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, sinh hoạt. Nhưng để bù lại số tiền phải trả cho các món tiền gửi mà ngân hàng huy động và chi phí phục vụ cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ phải thu của người đi vay một lãi suất cao hơn lãi suất huy động, lãi suất này đủ bù đắp cho các chi phí của ngân hàng và phần chênh lệch dư ra là một phần lợi nhuận mà ngân hàng được hưởng.
1.2: Vai trò của NHTM:
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM đóng vai trò hết sức quan trọng. Nền kinh tế quốc dân của mỗi nước không thể phát triển bền vững với tốc độ cao nếu không có một hệ thống ngân hàng mạnh. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của hệ thống NHTM là một tất yếu khách quan, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, là tác nhân thiết yếu đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước. Vì vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng, nền kinh tế càng phát triển càng tạo ra nhiều vốn. NHTM là những chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. NHTM là người đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Bằng nguồn vốn huy động được, NHTM sẽ cung cấp vốn trở lại cho nền kinh tế thông qua nghiệp vụ tín dụng, đáp ứng kịp thời cho quá trình tái sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.2.2. NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Từ đó, các doanh nghiệp sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng đúng nhu cầu thị trường về mọi phương diện: giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian, địa diểm. Hoạt động của các doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả kinh tế nhất định theo yêu cầu của thị trường thì mới có thể tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh. Để đạt được điều đó, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán... mà còn phải không ngừng cải tiến quy trình công nghệ, máy móc thiết bị, mở rộng quy mô kinh doanh một cách thích hợp. Những hoạt động này thường đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết khó khăn này, các doanh nghiệp có thể tìm đến các NHTM để vay vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư. Với nguồn vốn huy động dồi dào của mình, các NHTM có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu của cá doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng giúp doanh nghiệp mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM trở thành chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường, giúp doanh nghiệp tồn tại, đứng vững và phát triển trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.2.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, sự hoạt động có hiệu quả của ngân hàng sẽ là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Với hoạt động tín dụng và thanh toán, các NHTM góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Trong trường hợp cần áp dụng chính sách tiền tệ chặt, NHNN giảm lượng cung tiền hay tăng lãi suất chiết khấu,các NHTM sẽ đi vay ít đi, từ đó làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Ngược lại, khi áp dụng chính sách tiền tệ lỏng, tức là tăng mức cung tiền hay giảm lãi suất chiết khấu, các NHTM sẽ vay nhiều hơn, làm lượng tiền lưu thông tăng.
Với chức năng tạo tiền, NHTM là một trong các chủ thể tham gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra khối lượng thanh toán lớn trong nền kinh tế. Để điều tiết có hiệu quả nền kinh tế, NHNN sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế như: ổn địn giá trị tiền tệ, kiềm chế lạm phát...Nhưng các công cụ này chỉ thực sự có hiệu quả khi các NHTM hợp tác tích cực và có hiệu quả.
1.2.4. NHTM là cầu nối nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới:
Trong xu hướng quốc tế hoá, sự phát triển của nền kinh tế mỗi nước luôn gắn liền với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới. Vì vậy nền tài chính quốc gia cũng phải hoà nhập và gắn liền với nền tài chính quốc tế.
NHTM cùng với các hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập trên. Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh: nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, bảo lãnh...NHTM đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Thông qua các hoạt động thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng và thanh toán với ngân hàng nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với nền tài chính quốc tế.
2: Chức năng của NHTM:
2.1: Chức năng trung gian tài chính:
NHTM là trung gian tài chính quan trọng trên thị trường tài chính. Thị trường tài chính là nơi mà cung và cầu về tài chính gặp nhau để hình thành nên quan hệ giao dịch tài chính. Chính vì vậy mà trên thực tế luôn tồn tại những người có vốn sẵn sàng để cho vay và không ít những người cần vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn tạm thời cần được bổ sung trong thời gian ngắn. Ngân hàng là "cầu nối" giữa người có vốn và người cần vốn. Thông qua việc huy động các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội hình thành quỹ cho vay, rồi được ngân hàng sử dụng để cho vay đối với nền kinh tế, gồm cả cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nhưng chủ yếu là dùng để cho vay ngắn hạn. Thực hiện chức năng này là xuất phát từ đặc điểm sự tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình luân chuyển vốn của xã hội- chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn.
Mặt khác, xuất phát từ nhu cầu tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế, đòi hỏi các ngân hàng đứng ra làm trung gian để thu hút các nguồn tiết kiệm trong xã hội để đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất, thu hút các khoản tích luỹ cá nhân.
Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Ngân hàng vay của cá nhân, doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi như tiền bán hàng hay tiền trích khấu hao TSCĐ chưa sử dụng, tiền tiết kiệm cá nhân...và thực hiện cho vay đối với những doanh nghiệp, cá nhân cần tiền bổ sung cho các hoạt động kinh doanh của mình như cần mua nguyên vật liệu nhưng chưa bán được hàng, cần mua TSCĐ nhưng quỹ khấu hao chưa đủ, cá nhân vay để tiêu dùng...NHTM làm được chức năng này do là cơ quan chuyên kinh doanh tiền tệ, có khả năng nhận biết được tình hình cung- cầu tài chính, là nơi khách hàng có thể tin tưởng trong việc gửi tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn, ngân hàng giải quyết được mối quan hệ cung- cầu tài chính cả về khối lượng vốn vay và thời gian vay. Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên đó là người gửi tiền và người vay tiền cho ngân hàng và nền kinh tế.
+ Với người gửi tiền: Thu được lợ từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình do ngân hàng trả lãi tiền gửi. Hơn nữa, ngân hàng còn đẩm bảo sự an toàn và cung cấp các phương tiện thanh toán.
+ Với người đi vay: Thoả mãn được nhu cầu về vốn để kinh doanh, chi tiêu và thanh toán mà không phải tốn kếm nhiều về sức lực, thời gian cho việc cung ứng vốn tiện lợi và hợp pháp.
+ Với NHTM: Thu được lợi nhuận qua chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng. Lợi nhuận thu được chính là cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển.
+ Với nền kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và không ngừng mở rộng. Ngân hàng biến vốn nhàn rỗi, không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn và thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tài chính là chức năng quan trọng nhất của NHTM, nó phản ánh bản chất của ngân hàng là "người đi vay để cho vay", quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời là cơ sở để ngân hàng thực hiện tốt các chức năng khác.
2.2: Chức năng trung gian thanh toán:
Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi thực hiện chi trả theo yêu cầu của khách hàng trích tiền từ tài khoản để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản của khách hàng và các khoản thu khác... ở đây, ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho doanh nghiệp, cá nhân vì ngân hàng giữ tài khoản và thực hiện thu- chi hộ khách hàng.
Nền kinh tế phát triển, khối lượng thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng. Chức năng trung gian thanh toán được thực hiện trên cơ sở chức năng trung gian tài chính. Thông qua việc nhận giữ tiền gửi của khách hàng, ngân hàng mở cho họ tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu- chi. Đây là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh toán và đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán. Mặt khác việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế: có thể xảy ra rủi ro trong vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là đối với khách hàng ở xa.
NHTM thực hiện tốt chức năng này có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế. Ngân hàng cung cấp các công cụ thanh toán khác nhau và thuận tiện như: uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc, thẻ rút tiền, thẻ tín dụng... Nhờ vậy, khách hàng không cần giữ tiền trong tay hay mang theo tiền để thanh toán với chủ nợ ở xa, mà có thể sử dụng một phương thức nào đó phù hợp hơn để thanh toán. Do đó, tiết kiệm được chi phí lao động, thời gian và đảm bảo an toàn. Qua đó thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn góp phần tăng trưởng kinh tế. đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng sẽ làm giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí lưu thông, chi phí in ấn, bảo quản tiền. Với ngân hàng góp phần tăng thu nhập qua thu lệ phí thanh toán và tăng nguồn vốn cho vay thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Chức năng thanh toán là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của NHTM. Nhìn vào hệ thống thanh toán người ta có thể đánh giá được hoạt động của NHTM có hiệu quả hay không. Vì vậy chức năng này được hoàn thiện thì vai trò của NHTM là người "thủ quỹ" của xã hội sẽ được nâng cao hơn.
2.3. Chức năng tạo tiền:
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng hình thành ngân hàng phát hành và ngân hàng trung gian, các ngân hàng trung gian không