Xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày càng sâu sắc đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia muốn phát triển phải tham gia vào quá trình hội nhập. Đứng trước những đòi hỏi cấp bách của hội nhập, phát triển kinh tế, chúng ta đã thực hiện những cải cách mở cửa trong các ngành nghề và lĩnh vực của cuộc sống. Ngành Ngân hàng tài chính là một trong những ngành kinh tế trụ cột của quốc gia cũng đã có rất nhiều điều chỉnh, thay đổi để bắt kịp với nhu cầu hội nhập.
52 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động ngày càng sâu sắc đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới, các quốc gia muốn phát triển phải tham gia vào quá trình hội nhập. Đứng trước những đòi hỏi cấp bách của hội nhập, phát triển kinh tế, chúng ta đã thực hiện những cải cách mở cửa trong các ngành nghề và lĩnh vực của cuộc sống. Ngành Ngân hàng tài chính là một trong những ngành kinh tế trụ cột của quốc gia cũng đã có rất nhiều điều chỉnh, thay đổi để bắt kịp với nhu cầu hội nhập. Một trong những thay đổi mamg tính bước ngoặc đó là khi chúng ta tham gia vào lộ trình mở cửa của ngành tài chính ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO.
Thực hiện mở cửa ngành ngân hàng đồng nghĩa chúng ta chấp nhận những cạnh tranh ngày một gây gắt hơn giữa các ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh của các ngân hàng, đặc biệt là các NHTM nhà nước phải thực hiện đa dạng hóa khách hàng, thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cung cấp, nâng cao chất lượng các dịch vụ…. Khách hàng của các NHTM quốc doanh sẽ không chỉ tập trung vào khối các doanh nghiệp nhà nước mà còn mở rộng sang đối tượng khách hàng đầy tiềm năng là khối các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đây là khách hàng hứa hẹn những khoản thu nhập lớn cho các NH trong thời gian tới, nhất là khi chúng ta hội nhập toàn diện và đầy đủ của nền kinh tế Thế giới.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là ngân hàng có truyền thống lâu đời và được nhiều thành tựu trong 53 năm hoạt động vừa qua. Trong quá trình thực tập, nghiên cứu tại NH Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quảng Nam, tôi nhận thấy doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Thành phố Tam kỳ tỉnh Quảng Nam chiếm 80% thị phần trên tổng số doanh nghiệp trên địa bàn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với NH Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quảng Nam là một thị trường đầy tiềm năng. Vì vậy, Chi nhánh cần phải đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với thị trường khách hàng này. Thực tế trên đã khiến cho tôi quyết định chọn đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quảng Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là phân tích rõ thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của BIDV Chi nhánh Quảng Nam từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại ngân hàng. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là tập trung nghiên cứu lý luận cơ bản về cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh của NHTM, nghiên cứu các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thực trạng hoạt động cho vay của BIDV - Chi nhánh Quảng Nam đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh. Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê làm phương pháp nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề còn có các phần sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ tín dụng ngân hàng và hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Phần II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại BIDV - Chi nhánh Quảng Nam.
Phần III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại BIDV – Chi nhánh Quảng Nam.
Với những kiến thức còn mới mẽ, kinh nghiệm chưa nhiều, việc tiếp xúc với công việc thực tiễn còn hạn chế, bản thân rất mong sự đóng góp chân thành từ quý Thầy cô giáo hướng dẫn, những anh chị Cán bộ của cơ quan thực tập và sự quan tâm tạo điều kiện liên hệ thực tiễn của Ban giám đốc NH Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quảng Nam để chuyên đề tốt nghiệp được hoàn chỉnh, có ý nghĩa thiết thực hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
PHẦN I
Cơ sở lý luận về nghiệp vụ tín dụng ngân hàng và hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1 Khái niệm về doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.1.2 Khái niệm doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp không có vốn của Nhà nước đầu tư vào. Tuy không có vốn đầu tư của Nhà nước nhưng những doanh nghiệp này phải hoạt động trong khuôn khổ Pháp luật của Việt Nam (hoặc nước khác nếu doanh nghiệp lập chi nhánh ở nước ngoài).
1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM
Theo Điều 3 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN, ban hành Qui chế cho vay của Tổ chức tín dụng với khách hàng, ta có định nghĩa: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của các NHTM, chúng ta thấy rằng cho vay luôn là khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng và là khoản mục đem lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào doanh mục các khoản vay.
Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối với ngân hàng. So sánh với các tài sản khác khoản mục cho vay có tính lỏng kém hơn vì thông thường chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó đến hạn thanh toán. Khi một khoản vay được NHTM cấp cho người vay thì người vay mới là bên chủ động: có thể trả ngân hàng tiền vay trước hạn, đúng hạn thậm chí có thể xin gia hạn thêm thời gian trả nợ. Còn NHTM chỉ được phép quản lý các khoản vay đó tuân theo hợp đồng đã ký, ngân hàng phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã ký trừ khi có những vi phạm của khách hàng khi thực hiện hợp đồng.
1.2.2 Vai trò của hoạt động cho vay đối với Ngân hàng thương mại
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân như: Quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và một số nguyên nhân khách quan ngoài dự kiến.
Đối với các khách hàng và đối với nền kinh tế, mọi người đều mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của cộng đồng địa phương thông qua việc cung cấp các khoản vay, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng cho vay là chức năng hàng đầu của các NHTM để tài trợ cho chi tiêu của doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ.
Thông qua hoạt động cho vay, NHTM đã giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được liên tục và ổn định, góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế. Không chỉ có thể hoạt động cho vay còn nâng cao mức sống của tầng lớp dân cư và cả cộng đồng. Chính vì thế mà hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy tăng trưởng của doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ các nguồn khác với chi phí thấp hơn.
1.2.3 Phân loại các khoản cho vay
1.2.3.1 Phân theo thời hạn khoản cho vay
Theo tiêu thức này ngân hàng có thể quản lý tốt hơn về mặt thời gian của các khoản cho vay như là một khoản giải ngân, thời hạn thu nợ… Qua đó các ngân hàng có thể quản lý tốt khả năng thanh khoản của mình.
Cho vay ngắn hạn: Các khoản cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, chủ yếu nhằm mục đích tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất, cá nhân. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc cho vay gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không có đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Trung và dài hạn: Các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm thì được xếp vào danh mục khoản vay trung hạn và từ 5 năm trở lên là các khoản cho vay dài hạn. Các khoản này thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM, chiếm phần lớn lợi nhuận mà hoạt động cho vay đem lại.
1.2.3.2 Phân theo phương thức cho vay
Cho vay thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoản thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay mà mỗi lần khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Đây là hình thức tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả với ngân hàng.
Cho vay trả góp: Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Đây là loại hình cho vay rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp, vì vậy lãi suất cho vay trả góp là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
1.2.3.3 Phân theo hình thức đảm bảo
Khách hàng có thể đảm bảo bằng nhiều loại tài sản khác nhau, có thể bảo đảm bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng hoặc bảo đảm bằng uy tín của mình.
a. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản:
- Cầm cố bằng tài sản: Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng cho khách hàng vay với điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp luật và chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố là các tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh hưởng đến quy trình hoạt động của khách hàng, chẳng hạn như: các loại giấy tờ có giá, kim loại quý, ngoại tệ mạnh…
- Thế chấp bằng tài sản: Trong hình thức cho vay này, người vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời hạn đã cam kết.
Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất…hoặc là những bất động sản mà việc nắm giữ nó không thuận tiện như ô tô, xe máy…Việc thế chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng tài sản trong thời gian vay, tuy nhiên quá trình sử dụng có thể làm biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế. Việc định giá tài sản đảm bảo cũng là một khó khăn đòi hỏi phải thẩm định kỹ lưỡng, tránh định giá quá cao gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc định giá quá thấp gây ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng.
- Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đó không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ô tô, ngân hàng có thể yêu cầu lấy chính chiếc ô tô đó làm vật bảo đảm, khi khách hàng không có khả năng hoàn trả thì ngân hàng sẽ phát mại ô tô đó để thu nợ. Để đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán hoặc sử dụng không cẩn thận, làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu cho ngân hàng.
- Bảo lãnh bằng tài sản: Bảo lãnh là việc người thứ ba (còn gọi là bên bảo lãnh) cam kết với NHTM (bên nhận bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn trả nợ mà khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi khách hàng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình.
b. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản:
Hay còn gọi là tín chấp. Đây là hoạt động cho vay phần lớn dựa trên uy tín của khách hàng. NHTM cho vay căn cứ vào chính sách khách hàng, độ uy tín và nguồn trả nợ của khách hàng để quyết định mức cho vay và thời hạn trả nợ phù hợp. Thông thường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thường được ngân hàng xác nhận dựa trên Tổ chức đoàn thể, cơ quan công tác… của người xin vay. Phần lớn các khoản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản có giá trị không lớn, một số NHTM áp dụng biện pháp này khi khách hàng không còn tài sản nào để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ.
1.2.3.4 Phân theo đối tượng khách hàng
Thông qua cách phân loại này các NHTM phân chia khách hàng của mình thành các đối tượng khác nhau, từ đó lập ra các kế hoạch cũng như các chiến lược khác nhau phù hợp với đặc điểm riêng của từng loại khách hàng.
- Cho vay khách hàng là các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế: Đây là loại hình cho vay của các NHTM mà các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế là đối tượng được phục vụ. Do đặc thù riêng có của đối tượng này mà các NHTM phải tổ chức các phòng tín dụng chuyên trách phục vụ. Nhóm khách hàng này thường có nhu cầu với số lượng lớn, và có thể là rất lớn. Tuy nhiên, số lượng khách hàng loại này của mỗi NHTM thường không lớn, vì vậy các NHTM cần đặc biệt chú ý quan tâm đến từng khách hàng cụ thể, từ đó xây dựng tốt mối quan hệ tín dụng lâu dài, đồng thời mở rộng các mối quan hệ với các khách hàng mới.
- Cho vay khách hàng cá nhân: Nhóm đối tượng còn lại là nhóm các khách hàng cá nhân (bao gồm cá nhân, hộ gia đình, chủ trang trại, tổ hợp tác…) được các NHTM áp dụng phương thức cho vay theo quy trình thủ tục của cho vay khách hàng cá nhân. Nhóm đối tượng này có số lượng rất lớn và có nhu cầu vay các khoản nhỏ lẻ, tuy nhiên đây là nhóm khách hàng khá nhạy cảm nên các NHTM cần có phương thức tiếp cận cung ứng như cách thức quản lý hợp lý mới có thể khai thác tốt mảng khách hàng này.
Tuy nhiên tùy vào mỗi mục đích quản lý khác nhau mà mỗi ngân hàng có thể phân loại các khoản cho vay theo các tiêu thức khác nhau phù hợp với mục đích đó. Trên thực tế việc kết hợp nhiều tiêu thức với nhau thường được các ngân hàng sử dụng.
1.2.4 Các nguyên tắc cho vay
Khách hàng vay vốn NHTM phải đảm bảo các nguyên tắc cho vay sau:
+ Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
+ Hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Để đảm bảo nguyên tắc này các NHTM phải thường xuyên giám sát và kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng; nắm bắt, phân tích tình hình tài chính và khả năng trả nợ của người vay nhằm quản lý vốn vay chặt chẽ, đảm bảo thu hồi đủ gốc, lãi cho ngân hàng.
1.3 Hoạt động cho vay khách hàng Doanh nghiệp
1.3.1 Phân biệt cho vay khách hàng doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế với khách hàng cá nhân
Sự phân biệt giữa nhóm khách hàng doanh nghiệp, tổ chức tín dụng với khách hàng cá nhân nhằm mục đích là quản lý tốt việc cho vay đối với từng nhóm khách hàng. Do đó, chúng ta cần quan tâm đến sự khác biệt của hai nhóm khách hàng này trong việc tiếp cận cũng như thực hiện các khoản vay từ các NHTM. Sự khác biệt này được hình thành từ chính các đặc trưng vốn có của từng nhóm khách hàng.
Nhóm khách hàng lớn thường có nhu cầu vay các món lớn, thời hạn vay thường là ngắn và có tính ổn định cao (thường là mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh). Mỗi khoản vay điều đòi hỏi một quy trình thẩm định cũng như phân tích phải hết sức nghiêm ngặt do giá trị mỗi khoản vay này là rất lớn. Bất kỳ một sự sai sót nào trong các khâu này có thể dẫn đến hậu quả rất lớn tới kết quả hoạt động của ngân hàng cho vay. Vì vậy, đối với nhóm khách hàng này các NHTM cần tạo dựng các mối quan hệ hiểu biết lâu dài và liên tục.
Đối với nhóm khách hàng cá nhân thì các khoản vay của nhóm thường là các khoản vay nhỏ lẻ, và tính không thường xuyên và ổn định của các khoản vay. Các khoản này thường hình thành từ nhu cầu tức thời, vì vậy việc đáp ứng kịp thời các nhu cầu vay này là mục tiêu mà các NHTM phải hướng tới . Cho vay đối với nhóm khách hàng này giúp các NHTM phân tán được rủi ro thông qua việc cho vay được nhiều món vay đối với nhiều khách hàng. Các đối tượng thường được các NHTM xếp vào đối tượng khách hàng cá nhân không căn cứ vào giá trị của khoản vay là lớn hay nhỏ mà căn cứ vào tư cách của đối tượng xin vay trước pháp luật. Do với tư cách là cá nhân chứ không phải là một tổ chức nên đối tượng khách hàng cá nhân không có tư cách pháp nhân, vì vậy quan hệ với khách hàng quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng cho vay với người đến xin vay. Còn cho vay đối với các tổ chức thì người đến xin vay ngân hàng là người đại diện hợp pháp cho tổ chức, cá nhân này có tư cách của tổ chức chứ không mang tư cách của một cá nhân.
1.3.2 Các đặc trưng của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- Đặc trưng khoản vay: các khoản cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường là các khoản có giá trị lớn, nhưng số lượng các khoản vay là ít.
- Đặc trưng về chất lượng các khoản vay: chất lượng của các khoản vay thường là khá tốt. Tuy nhiên các khoản cho vay đối với khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có chất lượng tốt khi không có những biến cố từ phía khách hàng. Bên cạnh đó các khoản vay thường có tính rủi ro cao nên nó được các ngân hàng áp dụng mức lãi suất cao nhất trong bảng lãi suất cho vay áp dụng đối với các khoản vay trong các ngân hàng thương mại.
- Đặc trưng thời hạn khoản vay: Thời hạn của các khoản vay chủ yếu là dài hạn. một phần là trung hạn và một phần rất nhỏ là ngắn hạn. Điều đó có thể được giải thích phần nào do đây là hình thức cho vay với mức lãi suất cao nhất trong các NHTM.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.4.1 Các nhân tố chủ quan thuộc về phía ngân hàng
Đây là những nhân tố về nội bộ ngân hàng liên quan đến sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt, ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm: chính sách, công tác tổ chức, trình độ lao động, cơ sở vật chất, trang thiết bị…
1.4.1.1 Chính sách tín dụng của ngân hàng
Có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô tín dụng nói chung và của tín dụng ngắn hạn nói riêng. Bởi chính sách tín dụng chính là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi vào đúng quỹ đạo liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến việc thành bại của ngân hàng.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời của tín dụng, đồng thời phải là chính sách linh hoạt phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh tế, xã hội cũng như mục tiêu của ngân hàng. Tùy theo từng thời kỳ mà ngân hàng điều chỉnh quy mô tín dụng ngắn hạn hay trung, dài hạn; tập trung ưu tiên cho khu vực kinh tế quốc doanh hay ngoài qu