Từ sau khi hình thành vào năm 1975, ngành công nghiệp gỗ và đồ gỗ tại Việt Nam không ngừng lớn mạnh và tới nay đã trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực tại Việt Nam ( đứng thứ ba sau dệt may và giày dép). Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn là ngành công nghiệp này ở nước ta vẫn còn rất nhỏ lẻ và manh mún, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa công nghệ non kém còn rất nhiều, một số doanh nghiệp đạt yêu cầu về công nghệ thì đa số là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó là sự thiếu hụt trong nguồn nhân lực và sự yếu kém trong công tác marketing đã và đang tước đi rất nhiều cơ hội của ngành công nghiệp này.
61 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam vào thị trường mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2011”
TÊN CÔNG TRÌNH:
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
-
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Lý do chọn đề tài
Từ sau khi hình thành vào năm 1975, ngành công nghiệp gỗ và đồ gỗ tại Việt Nam không ngừng lớn mạnh và tới nay đã trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực tại Việt Nam ( đứng thứ ba sau dệt may và giày dép). Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn là ngành công nghiệp này ở nước ta vẫn còn rất nhỏ lẻ và manh mún, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa công nghệ non kém còn rất nhiều, một số doanh nghiệp đạt yêu cầu về công nghệ thì đa số là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó là sự thiếu hụt trong nguồn nhân lực và sự yếu kém trong công tác marketing đã và đang tước đi rất nhiều cơ hội của ngành công nghiệp này.
Mục tiêu nghiên cứu
Tập thể nhóm đã nỗ lực thực hiện bài nghiên cứu này trước là để phân tích những ưu và nhược điểm trong sản xuất và cung ứng, sau là trên nền bức tranh sáng tối ấy, chúng em đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế trong ngành chế biến và xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam.
Những giải pháp này được đề xuất dưới dạng một chiến lược Marketing hoàn chỉnh (bao gồm cả 4P) và một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế nội tại trong các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ ở Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng em thực hiện các phương pháp sau đây để thu thập thông tin.
Thông tin thứ cấp: Thông qua một số các bài viết trên các nguồn như báo tạp chí chuyên ngành có đề cập đến hoạt động xuất khẩu, internet và truyền hình.
Thông tin sơ cấp: Chúng em có thực hiện một cuộc điều tra khảo sát về ý muốn của người tiêu dùng tại các tiểu bang của nước Mỹ.
Phỏng vấn các anh chị phụ trách mảng Kinh Doanh xuất nhập khẩu và mảng Marketing tại các công ty sản xuất đồ gỗ xuất khẩu lớn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung nghiên cứu
Bài viết nghiên cứu các công ty sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ hiện có mặt tại Việt Nam, trọng tâm là các sản phẩm , các chiến lược xuất khẩu và Marketing của họ.
Đề tài chỉ giới hạn trong các số liệu nghiên cứu từ năm 2006 đến nay.
Đóng góp của đề tài
Trong đề tài này, chúng em có đề xuất một ý tưởng mới về sản phẩm đồ gỗ là đồ gỗ tự lắp ghép, sau điều tra nhu cầu thị trường tại Hoa Kỳ, loại đồ gỗ này được đa số các ứng viên yêu thích.
Hướng phát triển của đề tài
Hướng phát triển của đề tài là đi sâu hơn vào việc đánh giá tiềm năng của ý tưởng xuất khẩu đồ gỗ tự lắp ghép sang thị trường Mỹ, cũng như đề xuất thêm các giải pháp marketing khác cho sản phẩm này.
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
Lý do chọn đề tài
Từ sau khi hình thành vào năm 1975, ngành công nghiệp gỗ và đồ gỗ tại Việt Nam không ngừng lớn mạnh và tới nay đã trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực tại Việt Nam ( đứng thứ ba sau dệt may và giày dép). Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn là ngành công nghiệp này ở nước ta vẫn còn rất nhỏ lẻ và manh mún, số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa công nghệ non kém còn rất nhiều, một số doanh nghiệp đạt yêu cầu về công nghệ thì đa số là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thêm vào đó là sự thiếu hụt trong nguồn nhân lực và sự yếu kém trong công tác marketing đã và đang tước đi rất nhiều cơ hội của ngành công nghiệp này.
Mục tiêu nghiên cứu
Tập thể nhóm đã nỗ lực thực hiện bài nghiên cứu này trước là để phân tích những ưu và nhược điểm trong sản xuất và cung ứng, sau là trên nền bức tranh sáng tối ấy, chúng em đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế trong ngành chế biến và xuất khẩu đồ gỗ ở Việt Nam.
Những giải pháp này được đề xuất dưới dạng một chiến lược Marketing hoàn chỉnh (bao gồm cả 4P) và một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế nội tại trong các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ ở Việt Nam.
Đối tượng và giới hạn của để tài.
Là các công ty sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ hiện có mặt tại Việt Nam. Cùng với sản phẩm và các chiến lược xuất khẩu và Marketing của họ.
Đề tài chỉ giới hạn trong các số liệu nghiên cứu từ năm 2006 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu chúng em thực hiện các phương pháp sau đây để thu thập thông tin.
Thông tin thứ cấp: Thông qua một số các bài viết trên các nguồn như báo tạp chí chuyên ngành có đề cập đến hoạt động xuất khẩu, internet và truyền hình.
Thông tin sơ cấp: Chúng em có thực hiện một cuộc điều tra khảo sát về ý muốn của người tiêu dùng tại các tiểu bang của nước Mỹ.
Phỏng vấn các anh chị phụ trách mảng Kinh Doanh xuất nhập khẩu và mảng Marketing tại các công ty sản xuất đồ gỗ xuất khẩu lớn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Tính mới của đề tài.
Trong đề tài này, chúng em có đề xuất một ý tưởng mới về sản phẩm đồ gỗ là đồ gỗ tự lắp ghép, sau điều tra nhu cầu thị trường tại Hoa Kỳ, loại đồ gỗ này được đa số các ứng viên yêu thích.
Cấu trúc đề tài.
Đề tài gồm có 6 phần
Phần 1: Giới thiệu khái quát về đề tài.
Phần 2: Chương 1, cơ sở lý luận về lợi thế cạnh tranh và Marketing quốc tế.
Phần 3: Chương 2, giới thiệu về ngành sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam
Phần 4: Chương 3, phân tích thực trạng đồ gỗ Việt Nam.
Phần 5: Chương 4, đề xuất chiến lược và giải pháp.
Phần 6: Kết luận.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Khái niệm lợi thế cạnh tranh.
Theo như Kinh Tế Học cổ điển, lợi thế cạnh tranh là thứ đến từ sự sẵn có tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, lãi suất, hay giá trị tiền tệ của một quốc gia. Thực tế không phải như vậy, theo Porter khả năng cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc và năng lực của các ngành của quốc gia đó trong việc đổi mới và nâng cap, còn các công ty tạo ra được lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh giỏi nhất trên thế giới là do áp lực và thách thức. Các công ty này hưởng lợi từ việc có những đối thủ cạnh tranh mạnh ở trong nước, các nhà cung ứng nội địa năng động, và những khách hàng trong nước có nhu cầu.
Lợi thế cạnh tranh được tạo ra và duy trì thông qua một quá trình địa phương hóa cao độ; không một quốc gia nào có thể cạnh tranh tại mọi hay thậm chí phần lớn các ngành. Cuối cùng, các nước thành công trong các ngành cụ thể bởi vì môi trường nội địa của các nước đó hướng về tương lai nhất, năng động nhất và thách thức nhất.
Mô hình kim cương Porter
Liên quan đến lợi thế cạnh tranh quốc tế, Michael Porter đã đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình Kim Cương. Mô hình Kim Cương của Porter đặt trên cơ sở những yếu tố xác định riêng của bốn yếu tố và 2 yếu tố biến thiên bên ngoài, những yếu tố xác định bao gồm:
Những điều kiện về năng lực
Số lượng, kỹ năng và những chi phí về nhân lực
Sự phong phú chất lượng và chi phí của những tài nguyên của quốc gia
Vốn kiến thức của quốc gia: nền khoa học kỹ thuật và những am hiểu thị trường ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng hàng hoá và dịch vụ
Số lượng và chi phí về vốn có sẵn đối với ngành công nghiệp tài chính
Chủng loại, chất lượng và chi phí sử dụng các cơ sở hạ tầng: hệ thống giao thông vận chuyển quốc gia, hệ thống truyền thông, hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Những yếu tố khác tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống trong nước.
Những điều kiện và nhu cầu
Sự cấu thành của các nhu cầu tại thị trường địa phương mà nó phản ánh bởi các khía cạnh thị trường, tính chất tinh vi của người mua và nhu cầu của người mua tại thị trường địa phương tốt như thế nào đối với những người mua khác tại thị trường nước khác
Kích cỡ và mức phát triển về nhu cầu tại một nước
Những cách làm cho nhu cầu nội địa được quốc tế hoá và đưa những sản phẩm và dịch vụ ra nước ngoài.
Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan.
Những ngành công nghiệp liên quan mang tính cạnh tranh quốc tế có thể phối hợp và chia sẻ các hoạt động trong chuỗi mắc xích khi nó cạnh tranh, tiến nhanh đến chi phí sản xuất hiệu quả.
Chiến lược, cấu trúc của các xí nghiệp và sự cạnh tranh
Bao gồm các cấp để điều hành xí nghiệp và được chọn để cạnh tranh
Những mục tiêu mà các công ty cũng như những nhân viên và các nhà quản lý tìm kiếm để đạt được
Những kình địch cạnh tranh nội địa và những sáng tạo và sự bền bỉ về những ưu thế cạnh tranh trong từng ngành công nghiệp.
Bốn yếu tố xác định về những ưu việt của một quốc gia tạo nên môi trường cạnh tranh của các ngành công nghiệp. Tuy vậy 2 yếu tố khác: những cơ hội, vận may rủi và chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng:
Vai trò về cơ hội, vận may rủi
Những sự kiện về vận may rủi có thể xoá bỏ những ưu thế của 1 số nhà cạnh tranh ở một vị thế cạnh tranh tổng thể bởi những phát triển như: những phát minh mới, những quyết định về chính trị của các chính phủ nước ngoài, các cuộc chiến tranh, các thay đổi quan trọng trong các thị trường tài chính thế giới…
Vai trò của chính phủ
Chính phủ có thể tác động đến tất cả 4 yếu tố xác định qua các hành động như: trợ cấp, chính sách giáo dục, các quy định hay bãi bỏ các quy định trong thị trường vốn, thành lập các tiêu chuẩn và quy định về sản phẩm địa phương, mua các hàng hoá và dịch vụ, các luật thuế, và các quy định về chống độc quyền.
Khái niệm về Marketing và Marketing quốc tế.
Trong cuốn Marketing Manager của mình, Giáo sư Philip Kotler đã đưa ra định nghĩa về Marketing như sau: “Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác”. Như vậy theo giáo sư, Marketing là một hoạt động xã hội chứ không hạn chế là hoạt động kinh tế như một số định nghĩa trước đây, góp phần giúp con người thõa mãn những nhu cầu và mong muốn mà họ đã và đang đặt ra.
Khái niệm Marketing quốc tế chỉ khác Marketing ở chổ hàng hóa và dịch vụ phải được tiếp thị và đưa ra khỏi phạm vi của một quốc gia. Điều này có nghĩa là người làm Marketing quốc tế buộc phải đối diện với một môi trường đa chính trị và đa văn hóa, phức tạp hơn nhiều so với Marketing nội địa, vì thế, nó đòi hỏi một sự thay đổi lớn trong cách quản trị Marketing, giải quyết các trở ngại, thành lập và thực hiện các chính sách Marketing quốc tế.
Vai trò của marketing quốc tế
Mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Hạ gục đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Đảm bảo lợi nhuận về dài hạn.
Các loại hình marketing quốc tế
Marketing quốc tế gồm có 3 dạng:
Marketing Xuất Khẩu (Export Marketing).
Ðây là hoạt động Marketing nhằm giúp các doanh nghiệp đưa hàng hóa xuất khẩu ra thị trường bên ngoài. Như vậy, Marketing xuất khẩu khác Marketing nội địa bởi vì nhân viên tiếp thị (marketer) phải nghiên cứu nền kinh tế mới với môi trường chính trị, luật pháp, văn hóa xã hội đều khác với các điều kiện trong nước, buộc doanh nghiệp phải thay đổi chương trình Marketing trong nước của mình nhằm đưa hàng hóa thâm nhập thị trường nước ngoài.
Các hoạt động Marketing Xuất Khẩu bao gồm:
Phân tích điểm mạnh, điểm yếu của công ty về năng lực quản lý, sản xuất, kỹ thuật, tổ chức… để kết luận công ty có khả năng xuất khẩu không.
Phân tích và nhận dạng sản phẩm dành cho xuất khẩu, tiến hàng cải tiến chất lượng, bao bì, nhãn hiệu và dịch vụ cho phù hợp với việc xuất khẩu.
Nhận dạng thị trường xuất khẩu sản phẩm triển vọng.
Xếp hạng các thị trường xuất khẩu sản phẩm triển vọng.
Nghiên cứu các thị trường đã chọn ra.
Xây dựng chiến lược Marketing cho thị trường đã chọn.
Hoàn thiện, bổ sung chiến lược Marketing tránh các rủi ro có thể có.
Thử nghiệm và kiểm tra việc thực hiện chiến lược Marketing.
Marketing tại nước sở tại (The Foreign Marketing).
Đó là hoạt động Marketing bên trong các quốc gia mà ở đó Công ty đã thâm nhập. Marketing này không giống Marketing trong nước vì chúng ta phải đương đầu với một loại cạnh tranh mới, cách ứng xử của người tiêu thụ cũng khác, hệ thống phân phối, quảng cáo khuyến mãi khác nhau và sự việc càng phức tạp hơn nữa vì mỗi quốc gia đều có môi trường Marketing khác nhau, thử thách quan trọng ở đây là các Công ty phải hiểu môi trường khác nhau ở từng nước để có chính sách phù hợp, đó là lý do tại sao các chuyên viên Marketing cao cấp thành công ở một nước này nhưng lại rất ngán ngại khi có yêu cầu điều động sang một nước khác.
Marketing đa quốc gia (Multinational Marketing).
Nhấn mạnh đến sự phối hợp và tương tác hoạt động Marketing trong nhiều môi trường khác nhau. Nhân viên Marketing phải có kế hoạch và kiểm soát cẩn thận nhằm tối ưu hóa sự tổng hợp lớn nhất là tìm ra sự điều chỉnh hợp lý nhất cho các chiến lược Marketing được vận dụng ở từng quốc gia riêng lẻ.
Các chiến lược Marketing-mix quốc tế.
Chiến lược sản phẩm và xúc tiến quốc tế.
SẢN PHẨM
XÚC TIẾN
Không thay đổi
Thích nghi
Không thay dổi
1. Mở rộng đơn giản
3. Thích nghi về sản phẩm
5. Tạo sản phẩm mới
Thích nghi
2. Thích nghi về xúc tiến
4. Thích nghi kép
Chiến lược về giá.
Khi thực hiện việc kinh doanh quốc tế, các công ty phải rất chú ý đến việc kiểm soát giá vì đây là một trong những công cụ cạnh tranh hiệu quả nhất, hơn nữa, các nhà phân phối trung gian vì muốn tăng lợi nhuận thường rất hay tăng giá.
Chiến lược phân phối.
Người làm kinh doanh quốc tế nhất thiết phải nghiên cứu về hệ thông phân phối vì hệ thống phân phối ở các nước khác nhau thì hoàn toàn không giống nhau, hơn nửa, tại một số nước thì hệ thống phân phối địa phuong là hoàn toàn không hiệu quả.
Hình 1.1 Hình thức phân phối quốc tế.
Nhà sản xuất
Những tổ chức quốc tế của các nhà sản xuất
Các kênh phân phối quốc tế
Kênh phân phối địa phương
Người tiêu dùng hay người mua cuối cùng
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM
Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam
Số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ đã tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Hiện cả nước có trên 3.000 doanh nghiệp (công suất từ 200 m3 gỗ tròn/năm). Ngành chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ đã có bước phát triển vượt bậc. Sản phẩm gỗ đã giữ vị trí số 4 trong 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, thương hiệu sản phẩm gỗ Việt Nam dường như vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Sản phẩm gỗ Việt Nam năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu 3,4 tỷ USD, có mặt tại 120 thị trường trên thế giới, kể cả những thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... Xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt kim ngạch lớn nhất, với tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003 - 2007 khoảng 176%, chiếm khoảng 38% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đó là thị trường EU, với kim ngạch chiếm 28 - 30%.
Tuy có sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu nhưng chất lượng tăng trưởng sản phẩm gỗ Việt Nam còn thấp. Tăng trưởng của ngành chế biến gỗ Việt Nam phát sinh không hoàn toàn từ đổi mới công nghệ sản xuất. Trên 90% sản phẩm gỗ Việt Nam phải bán qua khâu trung gian và chủ yếu được sản xuất, gia công, chế biến theo sự đặt hàng và thiết kế mẫu từ khách hàng nước ngoài.
Phân tích điểm mạnh yếu của đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình kim cương Porter
Yếu tố thâm dụng.
Các yếu tố cơ bản.
Tài nguyên rừng:
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp nên diện tích đất chủ yếu dành để phát triển nông nghiệp, trong đó có trồng rừng và khai thác rừng.Tổng diện tích đất tự nhiên của Việt Nam là 32,9 triệu ha, rừng chiếm 10,9 triệu ha, trong đó 1,5 triệu ha là rừng trồng.Tây Nguyên có diện tích rừng lớn nhất cả nước với 2,37 triệu ha. Do đất nước ta trải dài từ Bắc xuống Nam và điạ hình với nhiều cao độ khác nhau so với mực nước biển nên rừng phân bố trên khắp các dạng địa hình, với nét độc đáo của vùng nhiệt đới và rất đa dạng: có nhiều rừng xanh quanh năm, rừng già nguyên thủy, rừng cây lá rộng, rừng cây lá kim, rừng thứ cấp, truông cây bụi và đặc biệt là rừng ngập mặn... với nhiều sản phẩm gỗ được khai thác đạt chất lượng cao. Đặc biệt Việt Nam còn được mệnh danh là rừng vàng biển bạc
Mặc dù vậy, nguồn nguyên liệu trong nước chỉ mới đáp ứng được 20-30% nhu cầu, đồng thời Chính phủ cũng giới hạn sản lượng khai thác gỗ hàng năm trong khoảng 150.000 - 200.000 m3/năm, đó là thách thức lớn đối với ngành gỗ từ nay đến năm 2010.Bởi lẽ phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu làm cho lợi thế cạnh tranh về giá càng giảm,từ đó giảm sức cạnh tranh trên thị trường.
Lao động:
Vịêt nam đứng thứ 13 trên thế giới về dân số với 86 triệu dân ; dân số trẻ với 65% dưới 35 tuổi. Vì vậy có nguồn lao động dồi dào, nhân công giá rẻ. Hiện nay, cả nước có hơn 2.000 doanh nghiệp chế biến gỗ và xuất khẩu gỗ, sử dụng khoảng 170.000 lao động. Ngành chế biến gỗ Việt Nam tăng mạnh không chỉ về số lượng nhà máy, quy mô sản xuất mà còn ở việc đầu tư thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, cạnh tranh trên bình diện quốc tế. Nhưng tất cả còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được sự phát triển của ngành đang là bài toán khó giải khi Việt Nam chưa có đủ các trường đào tạo nghề, bản thân doanh nghiệp cũng không đủ khả năng tự đào tạo.
Bà Nguyễn Thị Điền, Giám đốc Sở Công thương tỉnh Bình Dương nói, Bình Dương hiện là trung tâm chế biến gỗ xuất khẩu lớn nhất cả nước thế nhưng cũng không tránh khỏi những khó khăn về nhân lực. Đây là vấn đề lớn của ngành gỗ, việc thiếu cả công nhân lành nghề lẫn cán bộ quản lý khiến cho năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất không cao. Điều này sẽ hạn chế sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực. Ngành gỗ Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị phần gỗ trên thế giới. Cụ thể, trong ngành chế biến gỗ, bình quân một người làm ra chưa được số sản lượng tương đương 10.000 USD/năm, trong khi ở Trung Quốc con số này đã là 15.000 USD/năm. Chính điều này khiến doanh nghiệp khó trả lương cao cho nhân viên để giữ chân họ. Nếu không giải quyết nhanh vấn đề này chúng ta sẽ phải đối mặt với thách thức lớn hơn ngay tại thị trường trong nước khi tới năm 2010, hàng rào thuế quan bi dỡ bỏ. Sản phẩm gỗ của các nước sẽ vào Việt Nam tự do và bình đẳng.
Do quy mô sản xuất tăng đột biến, ngành xuất đồ gỗ đã thu hút hơn 170.000 lao động. Hiện nay còn cần khoản 30.000 lao động nữa.Trong khi đó, cả nước hiện chỉ có 5 trường dạy nghề lâm nghiệp, nhưng chỉ có duy nhất trường Hà Nam dạy chế biến gỗ. Thiếu nhân lực tác động đến giá nhân công ngành này tăng lên đáng kể, thậm chí có nơi phải trả mức lương gấp đôi để giữ được nhân công, dẫn đến chi phí sản phẩm tăng lên.
Lợi thế cạnh tranh về giá do chi phí nhân công thấp cũng không phải là điểm tốt trong thời điểm sắp tới bởi các thị trường chính của Việt Nam là EU, Mỹ đều rất quan tâm đến các vấn đề đằng sau đó, chẳng hạn như sản phẩm gỗ đó có phải do tù nhân sản xuất không, hoặc lô hàng đó có phải do lạm dụng lao động trẻ em hay không, nguy cơ rủi ro từ sản phẩm đối với người sử dụng, tác dụng phụ từ sản phẩm... Đã có trường hợp đồ gỗ xuất khẩu Trung Quốc vào thị trường EU đã bị trả lại vì bị nghi trong trường hợp như vậy. Mà xuất khẩu đồ gỗ vào hai thị trường này đều tăng đều đặn và chiếm phần lớn giá trị xuất khẩu, EU chiếm gần 28% và Mỹ là trên 30%. Trong điều kiện hiện nay, sản phẩm không chỉ được đánh giá qua giá cả thấp hay chi phí nhân công rẻ mà thị trường thế giới (đặc biệt là EU, Mỹ) còn quan tâm đến người lao động, môi trường làm việc của họ, trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường...
Yếu tố tăng cường.
Cơ sở hạ tầng.
Ngành giao thông vận tải của Việt Nam cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện voi đầy đủ các hệ thống đường:
Đường bộ (đường ô tô): Mạng lưới đường bộ đã được mở rộng và hiện đại hoá. Về cơ bản, mạng lưới đường ô tô đã phủ kín các vùng.
Đường sắt: Tổng chiều dài đường sắt nước ta là 3143 km.
Đường sông:Chiều dài giao thông 11000 km.
Đường biển:Thuận lợi: đường bờ biển dài 3260 km, nhiều vũng, vịnh rộng, kín gió và nhiều đảo, quần đảo ven bờ, nằm trên đường hàng hải quốc tế.
Đường hàng không:Là ngành non trẻ, nhưng có bước tiến nhanh.Đầu năm 2007, cả nước có 19 sân bay, trong đó có 5 sân bay quốc tế.
Đường ống:Vận chuyển bằng đường ống ngày càng phát triển, gắn với sự phát triển của ngành dầu khí.
Bưu chính: Có tính phục vụ cao, mạng lưới rộng khắp.Toàn bộ mạng lưới Bưu chính Việt Nam có hơn 300 bưu cục với bán kính phục vụ là 5,85 km/ bưu cục,