Việt Nam là một đất nước có truyền thống xuất khẩu gạo với những chủng loại sản phẩm gạo đa dạng và chất lượng gạo ổn định. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành nước có gạo xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Trong những năm vừa qua, xuất khẩu gạo Việt Nam đã cung cấp cho thị trường thế giới hàng triệu tấn gạo, góp phần không nhỏ trong tỷ trọng tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo luôn được Nhà nước ta quan tâm và coi trọng. Trên tinh thần đó, công ty cổ phần xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội (VIHAFOODCO) đã không ngừng nỗ lực trong việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo tới các thị trường tới các nước châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trong đó thị trường được công ty đặc biệt chú trọng là Cu Ba. Gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một bước tiến quan trọng đối với xuất khẩu lương thực của Việt Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng. Nó mở ra những cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu gạo vào thị trường Cu Ba, đồng thời cũng đặt ra những thách thức cần phải giải đáp để thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường này một cách hiệu quả.
Trên thế giới, hầu hết các sản phẩm gạo được tiêu dùng chủ yếu ở khu vực châu Á và châu Phi, vốn là các quốc gia đông dân và có thói quen tiêu dùng gạo. Tuy nhiên, thị trường Cu Ba vẫn là thị trường xuất khẩu chính và đem lại lợi nhuận lớn cho công ty. Thêm vào đó là xu hướng giá lương thực tăng trong những năm tới nên đây là một cơ hội tốt cho những doanh nghiệp xuất khẩu lương thực, khi đó không thể không nhắc tới thị trường Cu Ba, một thị trường truyền thống và là bạn hàng lâu năm của xuất khẩu gạo Việt Nam nói chung cũng như công ty nói riêng. Những kinh nghiệm quý báu tích lũy trong nhiều năm giao dịch với Cu Ba đã khiến thị trường này luôn là thị trường dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của công ty VIHAFOODCO. Tuy nhiên do nhiều yếu tố ảnh hưởng nên Công ty không thể đáp ứng được một lượng sản phẩm lớn khi nhu cầu thị trường đòi hỏi. Chính vì những lí do trên, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội” sẽ phần nào giúp cho việc thúc đẩy xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty được thuận lợi hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đang diễn ra như hiện nay.
68 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Việt Nam là một đất nước có truyền thống xuất khẩu gạo với những chủng loại sản phẩm gạo đa dạng và chất lượng gạo ổn định. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành nước có gạo xuất khẩu đứng thứ hai thế giới. Trong những năm vừa qua, xuất khẩu gạo Việt Nam đã cung cấp cho thị trường thế giới hàng triệu tấn gạo, góp phần không nhỏ trong tỷ trọng tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo luôn được Nhà nước ta quan tâm và coi trọng. Trên tinh thần đó, công ty cổ phần xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội (VIHAFOODCO) đã không ngừng nỗ lực trong việc đẩy mạnh xuất khẩu gạo tới các thị trường tới các nước châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trong đó thị trường được công ty đặc biệt chú trọng là Cu Ba. Gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một bước tiến quan trọng đối với xuất khẩu lương thực của Việt Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng. Nó mở ra những cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu gạo vào thị trường Cu Ba, đồng thời cũng đặt ra những thách thức cần phải giải đáp để thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường này một cách hiệu quả.
Trên thế giới, hầu hết các sản phẩm gạo được tiêu dùng chủ yếu ở khu vực châu Á và châu Phi, vốn là các quốc gia đông dân và có thói quen tiêu dùng gạo. Tuy nhiên, thị trường Cu Ba vẫn là thị trường xuất khẩu chính và đem lại lợi nhuận lớn cho công ty. Thêm vào đó là xu hướng giá lương thực tăng trong những năm tới nên đây là một cơ hội tốt cho những doanh nghiệp xuất khẩu lương thực, khi đó không thể không nhắc tới thị trường Cu Ba, một thị trường truyền thống và là bạn hàng lâu năm của xuất khẩu gạo Việt Nam nói chung cũng như công ty nói riêng. Những kinh nghiệm quý báu tích lũy trong nhiều năm giao dịch với Cu Ba đã khiến thị trường này luôn là thị trường dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của công ty VIHAFOODCO. Tuy nhiên do nhiều yếu tố ảnh hưởng nên Công ty không thể đáp ứng được một lượng sản phẩm lớn khi nhu cầu thị trường đòi hỏi. Chính vì những lí do trên, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội” sẽ phần nào giúp cho việc thúc đẩy xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty được thuận lợi hơn trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa đang diễn ra như hiện nay.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
2.1.Mục đích nghiên cứu đề tài:
Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về xuất khẩu và các quy định về nhập khẩu gạo của thị trường Cu Ba.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của công ty VIHAFOODCO, từ đó rút ra những thành công và những mặt tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
- Từ định hướng của xuất khẩu gạo Việt Nam và của công ty lương thực thực phẩm VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba mà dự báo những cơ hội và thách thức của công ty VIHAFOODCO khi xuất khẩu gạo sang thị trường này. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu thị trường gạo thế giới cùng hoạt động xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO từ đó đề ra các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Về mặt hàng: Chỉ nghiên cứu mặt hàng gạo xuất khẩu
- Về không gian: Giới hạn vào thị trường Cu Ba
- Về thời gian: Từ năm 2004 đến nay và các năm tiếp theo
5. KẾT CẤU CỦA BÀI VIẾT:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, toàn bộ nội dung của bài viết được chia làm 3 chương:
Chương I: Đặc điểm thị trường Cu Ba và vấn đề xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Cu Ba.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của công ty VIHAFOODCO sang thị trường Cu Ba.
CHƯƠNG I
ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG CU BA VÀ VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CU BA
1.1. ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG CU BA
1.1.1. Vị trí địa lý
Cu Ba có diện tích 114.524 km2, nằm ở vùng biển Ca-ri-bê, giữa Bắc, Trung và Nam Mỹ, được nhà thám hiểm Tây Ban Nha Cristobal Colon phát hiện ra ngày 27/10/1492. Là quần đảo gồm hơn 1.600 đảo, trong đó lớn nhất là đảo Cu Ba với diện tích 110.922 km2, 3/4 diện tích là đồng bằng; sông ngòi ít, nhỏ; khí hậu nhiệt đới ôn hoà. Cu Ba có trữ lượng quặng ni-ken lớn; ngoài ra còn có quặng đồng, sắt, măng-gan, dầu lửa; đất đai mầu mỡ, thích hợp cho canh tác cây công nghiệp (mía, cà phê, thuốc lá...), cây ăn quả và chăn nuôi đại gia súc.
1.1.2. Đặc điểm về kinh tế - chính trị
Từ khi Cách mạng Cu Ba thành công (năm 1959) đến những năm đầu thập niên 70, Cu Ba cố gắng thoát khỏi thế độc canh mía đường, đa dạng hoá sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1972, Cu Ba tham gia khối SEV, được Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu hỗ trợ và đạt những thành tựu nổi bật trong xây dựng kinh tế. Các ngành kinh tế chính của Cu Ba là: công nghiệp đường mía, khai thác và chế biến ni-ken, du lịch, công nghiệp nhẹ sản xuất xì gà, rượu rum, hoá mỹ phẩm... Từ cuối thập kỷ 80 và nhất là đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Cu Ba rơi vào thời kỳ đặc biệt khó khăn, mất thị trường và không còn nhận được viện trợ từ Liên xô và các nước Đông Âu.
Bắt đầu từ cuối thập niên 1980, các khoản viện trợ của Liên Xô cho nền kinh tế quản lý nhà nước của Cu Ba bắt đầu cạn kiệt. Trước khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, Cu Ba phụ thuộc vào Moscow về thị trường xuất khẩu và những khoản viện trợ tối cần thiết. Người Xô viết từng trả giá cao cho sản phẩm đường của Cu Ba trong khi cung cấp dầu mỏ cho nước này với giá thấp hơn thị trường. Sự biến mất của các khoản trợ cấp đó đã khiến nền kinh tế Cu Ba rơi vào một giai đoạn suy thoái nhanh chóng, được gọi là Giai đoạn đặc biệt tại Cu Ba. Có thời điểm, Cu Ba nhận được các khoản viện trợ lên tới sáu tỷ dollar Mỹ.
Năm 1992, Hoa Kỳ thắt chặt lệnh cấm vận thương mại. Một số người tin rằng điều này có thể đã tới sự sụt giảm tiêu chuẩn sống tại Cu Ba và chạm tới điểm khủng hoảng chỉ trong vòng một năm
Từ cuộc Cách mạng Cu Ba năm 1959, tiêu chuẩn sống người dân Cu Ba luôn trượt theo một vòng xoáy đi xuống. Năm 1962, chính phủ đưa ra chính sách phân phối lương thực, càng trở nên gắt gao sau sự sụp đổ của Liên Xô. Ngoài ra, Cu Ba đã trải qua tình trạng thiếu hụt nhà ở vì chính phủ không thể đáp ứng nổi sự gia tăng nhu cầu. Tới cuối năm 2001, nghiên cứu cho thấy mức sống trung bình tại Cu Ba thấp hơn giai đoạn Liên Xô. Những vấn đề chủ chốt là nhà nước không thể trả lương đáp ứng nhu cầu của người lao động và hệ thống phân phối luôn bị ám ảnh thường xuyên với tình trạng thiếu hụt hàng hoá. Khi số lượng hàng hóa phân phối giảm sút, người Cu Ba dần phải quay sang chợ đen để có được những sản phẩm cơ bản: quần áo, thực phẩm, đồ dùng gia đình, vật dụng chăm sóc sức khoẻ. Ngoài ra, tình trạng tham nhũng nhỏ trong các ngành công nghiệp nhà nước, như ăn cắp tài sản nhà nước để bán ra chợ đen, cũng thường xảy ra. Trong những năm gần đây, sự nổi lên của Venezuela với vị Tổng thống Dân chủ Xã hội Hugo Chavez khiến Cu Ba có được nhiều khoản viện trợ từ nước này giúp cải thiện nền kinh tế. Viện trợ của Venezuela cho Cu Ba chủ yếu thông qua khoản cung cấp lên tới 80.000 barrel dầu mỏ mỗi ngày đổi lấy lao động chuyên gia và các mặt hàng nông nghiệp. Trong nhiều năm qua, Cu Ba đã thu hồi lại một số biện pháp định hướng kinh tế thị trường đã được đưa ra trong thập kỷ 1990.
Từ năm 1993, Cu Ba đã từng bước điều chỉnh chính sách, thi hành một số biện pháp cải cách kinh tế, đưa đất nước từng bước vượt qua thời kỳ khó khăn, thúc đẩy kinh tế phát triển. Quốc hội khóa V của Cu Ba đã thông qua luật mới về hợp tác, trong đó có các hợp tác xã tín dụng và dịch vụ, hợp tác xã nông nghiệp. Theo luật mới, các hợp tác xã được quyền tự vạch kế hoạch sản xuất của mình mà không phụ thuộc vào Bộ, ngành của Chính phủ. Đối với vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, Cu Ba duy trì chế độ sở hữu xã hội, không tư nhân hóa, nhưng có giao quyền sử dụng các tư liệu sản xuất cho nông dân, đa dạng hóa kết cấu sở hữu và kinh tế hợp tác xã, thành lập các doanh nghiệp hỗn hợp và áp dụng một số hình thức liên doanh kinh tế quốc tế. Do tác động của nhiều loại nhân tố, từ năm 2002, Chính phủ Cu Ba đã tiến hành tái cấu trúc, điều chỉnh quy mô sản xuất, duy trì ngành công nghiệp mía đường, một ngành công nghiệp mũi nhọn truyền thống của kinh tế Cu Ba, đủ đáp ứng nhu cầu trong nước (khoảng 6-7 triệu tấn đường/năm); đã ngừng hoạt động 70 nông trường trồng mía, 20 nhà máy sản xuất đường và một số cơ sở sản xuất phụ trợ, tiết kiệm 300 triệu USD/năm cho ngân sách nhà nước.
Năm 2004, các quan chức Cu Ba đã công khai ủng hộ đồng Euro trở thành "đối trọng toàn cầu với đồng dollar Mỹ", và hạn chế đồng dollar trong dự trữ cũng như trong thanh toán thương mại. Những hạn chế ngày càng tăng của chính phủ Hoa Kỳ về đi lại của những người Mỹ gốc Cu Ba cũng như khoản tiền họ được phép mang về Cuba càng khiến chính phủ Cuba tăng kiểm soát sự lưu chuyển đồng dollar trong nền kinh tế. Trong thập kỷ qua, người Cu Ba nhận được khoảng 600 triệu tới 1 tỷ dollar hàng năm, chủ yếu từ các thành viên gia đình đang sống tại Mỹ. Con số này bị ảnh hưởng bởi thực tế chính phủ Mỹ cấm các công dân của mình gửi quá 1.200 USD về Cu Ba.
1.1.3. Đặc điểm của thị trường Cu Ba về nhập khẩu gạo
Món ăn chính của Cu Ba gọi là Congrí, gồm cơm trộn đậu đen, chuối khô và salad. Gạo trở thành một sản phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người dân Cu Ba. Mỗi năm Cu Ba phải chi hàng tỉ dollar, là một nước nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới. Ngay như La Habana, thủ đô của Cu Ba, mỗi người dân chỉ được cung cấp 9 liu, khoảng 4 ký rưỡi gạo một tháng. Mỗi năm Cuba phải có tối thiểu 600 ngàn tấn gạo, nhưng hiện nay mới chỉ sản xuất được khoảng 100 ngàn tấn, chỉ riêng tỉnh Holguin, theo sổ phân phối hàng năm cũng phải có 5 vạn tấn gạo.
Ở Cu ba gạo, dầu ăn, đường, sữa, bánh mỳ, thịt, xăng dầu... trừ vải vóc, tất cả đều phải có tem phiếu. Hình thức phân phối sản phẩm khá giống với thời kì bao cấp trước đây tại Việt Nam. Do đó, lương thực, thực phẩm cũng như các nhu yếu phẩm khác trở thành vấn đề cấp thiết đối với cả chính phủ cũng như người dân Cu Ba.
Liên hiệp Lúa gạo Cu Ba nhận thấy rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới việc kìm hãm sản xuất gạo trong nước. Trước hết, phải kể tới thu nhập của người nông dân cũng như công nhân nông nghiệp của Cu ba còn quá thấp. Nhiều công trường cả gia đình còn ăn bếp tập thể. Điều này dẫn đến việc không thể trang trải các chi phí đầu vào như giống và nguyên liệu. Thứ hai là chính sách giá cả trong việc thu mua lúa gạo, yếu tố thị trường chưa có, gần như rất hiếm mô hình chợ mua bán. Trong khi cả nước còn thiếu lúa gạo, thì có những huyện sản xuất ra không bán được vì thiếu phương tiện vận chuyển. Bởi vậy, có vùng nông dân phải bán cho tư thương chỉ bằng một nửa giá nhà nước thu mua ở huyện vì không có phương tiện vận chuyển. Ở Cu Ba công đoạn sau thu hoạch còn kém. Do đó, hạt lúa phải đi qua nhiều nơi mới trở lại chính nơi làm ra nó. Cu Ba cần đổi mới chính sách về sử dụng đất, chính sách đầu tư và chính sách cân đối lương thực tại chỗ mới có thể khắc phục một phần tình trạng này.
Với các yếu tố kể trên, nhu cầu gạo của Cu Ba luôn luôn ở mức cao. Mỗi năm nhu cầu nhập khẩu gạo của nước này là 500.000 – 600.000 tấn gạo.
Chủng loại gạo xuất khẩu sang thị trường Cu ba chủ yếu là gạo 5% tấm và gạo 15% tấm với mức giá giao động trong khoảng từ 400-410 USD/tấn.
1.2. KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG CU BA
1.2.1. Khái quát tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tháng cuối cùng của năm 2007 diễn ra tương đối chậm chạp do chỉ giới hạn ở việc hoàn thành những hợp đồng cũ. Những doanh nghiệp xuất khẩu đã thực hiện xong các hợp đồng bắt đầu bán gạo cho những đơn vị xuất khẩu còn hợp đồng phải hoàn tất. Giới kinh doanh gạo cho rằng, hoạt động xuất khẩu gạo chỉ có thể nối lại từ tháng 3/08, khi nguồn cung gạo mới từ vụ thu hoạch lúa đông xuân có mặt đầy đủ trên thị trường.
Giá gạo xuất khẩu liên tục tăng do nguồn cung khan hiếm trong khi nhu cầu thế giới lại rất lớn. Gạo 5% tấm Việt Nam chào bán 376 USD/tấn (tăng 5,9%) kém gạo 5% tấm Thái Lan 14 USD/tấn. Gạo 25% tấm là 360 USD/tấn (tăng 5,88%) so với tháng trước. Theo kế hoạch năm 2008 cả nước sẽ xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo các loại với kim ngạch 1,7 tỷ USD, giữ nguyên lượng nhưng tăng 21,43% về trị giá so với năm 2007.
Biểu đồ 1: Diễn biến giá gạo xuất khẩu 5% tấm 2007-2008 (USD/tấn, FOB)
Nguồn : Thông tin thương mại Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng 12 năm 2007, cả nước đã xuất khẩu được 101 nghìn tấn, trị giá 42,2 triệu USD, tăng 45% về lượng và 82% về trị giá so với tháng 11/07, tăng 512% về lượng và 655% về trị giá so với tháng 12/06. Như vậy, kết thúc năm 2007, các doanh nghiệp đã hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,48 tỷ USD, giảm nhẹ 3% về lượng nhưng vẫn tăng tới 16% về trị giá so với năm 2006.
Lượng gạo của Việt Nam xuất khẩu qua các tháng từ năm 2005- 2007 dao động theo từng tháng và tuân theo chính sách xuất khẩu lương thực của Chính phủ . Có hiện tượng lượng gạo xuất khẩu năm sau thấp hơn so với năm trước nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng do giá gạo tăng liên tục trong khoảng thời gian từ cuối năm 2007 đến đầu năm 2008.
Biểu đồ 2: Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam qua các tháng
(ĐVT: Nghìn tấn)
Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam.
Trong tháng 12/2007, các doanh nghiệp trong nước tập trung xuất khẩu những loại gạo cao cấp như gạo nếp, gạo thơm và gạo giống Nhật các loại nên giá xuất khẩu trung bình tăng vọt so với những tháng trước đó, ở mức 416 USD/tấn, cao hơn 86 USD/tấn so với tháng 11/07 và cao hơn 106 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2006. Như vậy, qua theo dõi diễn biến giá gạo từ đầu năm đến nay, nhận thấy khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan đã bị thu hẹp, thậm chí có thời điểm đạt mức ngang giá. Tính chung cả năm 2007, giá gạo xuất khẩu trung bình đạt mức 329 USD/tấn, tăng 54 USD/tấn so với mức giá bình quân của năm 2006. Dự báo trong năm 2008, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng ở mức rất cao do tình trạng thiếu hụt các loại nông sản trên thế giới vẫn đang tiếp diễn, đặc biệt là trước thực trạng lúa mì đang bị mất mùa nên nhiều nước đã chuyển sang tiêu thụ gạo. Trong đó, gạo 25% tấm giá sẽ trong khoảng từ 320 USD trở lên, gạo 5% tấm cũng sẽ giữ ở mức 340 USD trở lên.
Số liệu Hải quan về thị trường xuất khẩu gạo trong năm 2007 cho thấy, so với năm 2006, cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, bên cạnh việc mở rộng thêm một số thị trường mới thì khá nhiều thị trường khác đã đạt tốc độ tăng trưởng về kim ngạch khá cao so với các năm trước, đặc biệt là xuất sang những thị trường quen thuộc như Philippin, CuBa, Ghana và Trung Quốc.
1.2.2. Cu Ba – Một trong những thị trường trọng điểm về xuất khẩu gạo của Việt Nam
Từ đầu năm đến nay, gạo Việt Nam đã được xuất khẩu sang khoảng 90 thị trường và vùng lãnh thổ, kể cả các thị trường EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ vốn rất khắt khe. Rất nhiều thị trường trong số đó có lượng nhập khẩu giảm nhưng kim ngạch lại tăng khá so với cùng kỳ năm trước, điều này cho thấy sự cải thiện rõ rệt về giá xuất khẩu cũng như chất lượng gạo Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên thị trường thế giới.
Trong nhóm 20 thị trường dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu gạo trong năm 2007, có 11 thị trường đạt mức tăng trưởng dương. Đáng chú ý nhất trong số đó là thị trường Inđônêxia với mức tăng trưởng lên tới 237% về lượng và 255% về trị giá so với năm 2006, đạt 1,17 triệu tấn, trị giá 379 triệu USD, vươn lên đứng vị trí thứ nhì trong tốp 10 thị trường dẫn đầu. Tuy nhiên, vẫn xuất hiện một số thị trường lớn có mức tăng trưởng âm, nổi bật nhất là thị trường Nhật Bản với kim ngạch xuất khẩu đạt 18,7 triệu USD, tổng lượng xuất đạt 64,6 nghìn tấn, giảm 56% về kim ngạch và 61% về lượng so với năm 2006.
Bảng 1: 30 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu gạo lớn nhất trong năm 2007
Thị trường
Năm 2007
So sánh năm 2006
Lượng (Tấn)
Trị giá (USD)
Lượng (%)
Trị giá (%)
Philippin
1,458,136
466,070,763
-0.52
12.03
Inđônêxia
1,169,429
378,979,955
237.64
255.61
Cu Ba
431,370
167,260,760
-4.80
27.45
Malaixia
376,929
115,867,041
-25.37
-17.14
Bờ Biển Ngà
148,010
45,888,349
-30.69
-13.61
Gana
130,921
39,712,399
13.14
39.15
Ăngôla
115,472
36,202,615
-36.45
-23.86
Singapore
82,390
25,911,742
-16.14
1.63
Nhật Bản
64,640
18,718,676
-60.88
-56.56
Côngô
54,546
16,069,099
-25.14
-13.13
Trung Quốc
42,630
15,903,299
3.12
15.30
Tanzania
50,078
15,564,993
-42.24
-29.20
ĐôngTimo
50,302
15,234,648
1.91
27.61
Nga
38,594
13,209,642
-37.52
-24.05
Nam Phi
36,980
10,908,910
-64.66
-56.20
Papua New Guinea
32,450
9,468,475
26.76
53.89
Môdămbic
31,250
9,372,850
-13.55
6.86
Iran
31,500
9,315,390
12,500
11,931
Đài Loan
19,521
7,855,140
118.60
237.59
Camêrun
25,942
7,750,236
-41.24
-29.67
Benin
14,770
4,549,160
196.88
267.96
Kenya
13,062
3,954,350
-79.23
-74.35
Ukraina
9,835
3,159,567
-2.42
15.69
Gabông
9,985
3,042,493
-7.57
6.69
Afgakistan
9,250
2,835,125
15.63
30.23
Angiêri
8,456
2,682,655
-82.67
-78.84
Brunei
8,297
2,592,010
-28.07
-13.54
Hà Lan
4,027
1,464,420
812.74
923.22
UAE
3,757
1,219,908
64.08
83.11
Hungary
2,388
1,107,752
*
*
Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam
Riêng trong tháng 12/2007, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ xuất khẩu gạo sang 24 thị trường. Lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đều ở mức khá thấp, chỉ có 2 thị trường đạt mức xuất khẩu trên 10 nghìn tấn. Trong đó Cu Ba, Inđônêxia, Bờ Biển Ngà, Malaixia và Singapore là những thị trường xuất khẩu nhiều nhất. Dẫn đầu là CuBa với lượng xuất đạt 42,75 nghìn tấn, trị giá 21,7 triệu USD, tăng mạnh tới 8.450% về lượng và tăng 13.585% về trị giá so với tháng 11/2007. Trong khi đó, xuất khẩu sang Phillippin – thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của nước ta chỉ đạt vỏn vẹn 3 nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 1,1 triệu USD, giảm 25% về lượng và 24,4% về trị giá so với tháng 11/07, nhưng vẫn cao hơn cùng kỳ năm trước 142% về lượng và 148% về trị giá.
Bảng 2: Các thị trường xuất khẩu gạo trong tháng 12/2007
Thị trường
Tháng 12/07
So sánh T11/07
So sánh T12/06
Lượng (Tấn)
Trị giá (USD)
Lượng (%)
Trị giá (%)
Lượng (%)
Trị giá (%)
Cuba
42,750
21,739,470
8,450
13,585
*
*
Inđônêxia
23,900
7,348,400
-13.09
-14.42
338.93
204.70
Bờ biển Ngà
5,867
2,523,030
761.53
756.62
*
*
Malaysia
5,821
1,886,230
-80.36
-79.75
3,859.86
2,179.71
Singapore
3,919
1,238,992
116.76
79.84
88.32
117.06
Đông Timo
3,260
1,189,328
38.72
50.62
*
*
Philipine
3,025
1,092,513
-25.31
-24.43
142.00
148.72
Trung Quốc
2,540
912,467
39.71
41.71
*
*
Xênêgan
2,370
865,275
*
*
*
*
Nga
1,683
757,605
1,672
1,598
*
*
Đài Loan
1,689
743,898
-32.79
-33.64
*
*
Tanzania
1,171
473,793
*
*
*
*
Brunei
827
313,654
*
*
*
*
Ả rập xê út
804
305,941
168.00
199.92
221.60
282.81
Nam Phi
460
193,660
*
*
*
*
Đức
260
147,207
441.67
581.51
*
*
Australia
183
85,975
3.98
5.41
*
*
Phigi
125
46,204
*
*
*
*
Ixraen
95
41,470
-58.70
-59.02
*
*
Gana
75
40,875
-16.67
-20.60
*
*
Hồng Kông
44
18,399
*
*
-63.23
-31.70
Na Uy
42
17,555
*
*
*
*
Pháp
22
10,035
-80.70
-76.92
-21.43
-36.85
Mỹ
20
8,970
-54.55
-55.17
-72.22
-68.85
Nhật Bản
3
2,160
*
*
*
*
Nguồn: Thông tin thương mại Việt Nam
Trong tháng 12/07, các doanh nghiệp đã xuất khẩu nốt 146 lô hàng cuối cùng của năm. Hầu hết các chủng loại gạo được tiêu thụ mạnh nhất như gạo 5% tấm, 25% tấm … coi như đã ho