Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trên thế giới gắn liền với sự phát triển của trình độ sản xuất và tiến bộ của xã hội loài người. Đến những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các Ngân hàng thương mại trên thế giới nhất là ở Mỹ và các nước Tây Âu đã phát triển mạnh, cùng giai đoạn lịch sử đó đã xuất hiện ngân hàng phát hành - đó là Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ phát hành tiền, nhận tiền gửi và cho vay đối với các Ngân hàng thương mại. Đến thời kỳ này, hệ thống Ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường đã được xác lập và phát triển thành hệ thống Ngân hàng hiện đại. Các Ngân hàng đã và đang có những bước phát triển và hoàn thiện, thể hiện tính đa dạng và phong phú về thể chế; sự phân hoá thành những ngân hàng lớn và nhỏ trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường; chất lượng hoạt động nghiệp vụ không ngừng được nâng cao trở thành công nghệ ngân hàng hiện đại như ngày nay.
Sự mở rộng về quy mô và không ngừng được nâng lên về chất lượng của các Ngân hàng thương mại cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương và xu hướng toàn cầu hoá hoạt động ngân hàng, làm cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại không chỉ bị giới hạn trong mỗi quốc gia mà nó được phát triển mở rộng sang nhiều nước khác. Lúc này, sự chu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu cũng vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và mang tính quốc tế.
Mặt khác, mục tiêu của các Ngân hàng thương mại là tìm kiếm lợi nhuận, sự tìm kiếm này không chỉ ở trong nước mà còn được thực hiện cả ở nước ngoài. Khi các Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài thì không chỉ là nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn, mà còn đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của mình trong sự cạnh tranh ngày càng gat gắt của thị trường.
Với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận nên các Ngân hàng thương mại nhiều khi coi nhẹ việc tuân thủ luật pháp và các quy chế an toàn, có trường hợp không phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là loại kinh doanh gặp nhiều rủi ro nhất trong các loại kinh doanh. Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh tiền tệ mà các Ngân hàng thương mại thường gặp phải là:
- Rủi ro lãi suất,
- Rủi ro hối đoái và tỷ giá,
- Rủi ro hệ thống,
- Rủi ro môi trường,
- Rủi ro cơ chế v.v.
Ở nước ta, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, Đảng ta yêu cầu "chuyển mạnh hoạt động của Ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa " [10]. Theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1998 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), vào giữa năm 1988 chúng ta đã chuyển hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, đó là Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng.
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật, mục tiêu chính của các Ngân hàng thương mại là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; nhưng phải tuân thủ nghiêm túc luật pháp và các quy chế. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro như đã phân tích ở trên. Vì vậy, để hạn chế những vi phạm của các Ngân hàng thương mại, giúp các Ngân hàng thương mại tránh được rủi ro đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước thông qua một cơ quan chức năng, đó là Ngân hàng Trung ương (ở nước ta là Ngân hàng Nhà nước) và thường được giao chủ yếu cho Thanh tra Ngân hàng. Điều này được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng, đó là: "Các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải chịu sự thanh tra của Thanh tra Ngân hàng theo quy định của pháp luật " [5].
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước ta, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
" - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước;
- Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam;
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia, tách, hợp nhất, sát nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ;
- Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế;
- Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng;
- Ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật;
- Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ uỷ quyền;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng" [5].
Trong các chức năng trên, chức năng kiểm tra, thanh tra được giao chủ yếu cho Thanh tra Ngân hàng và tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Ngân hàng cũng được quy định cụ thể trong Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, do chủ trương "đổi mới" quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, kinh tế trong nước được kích thích và phát triển thông qua việc xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, Nhà nước thừa nhận vai trò của kinh tế hàng hoá với chủ trương "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, Đảng và Nhà nước ta cũng thực hiện "mở cửa" nền kinh tế nước ta với tất cả các nước, tạo cơ sở cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào nước ta. Theo đó, nhiều ngân hàng nước ngoài đã xin phép Nhà nước để đầu tư vào nước ta dưới hình thức liên doanh (Ngân hàng liên doanh) hoặc thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài (Chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
72 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đổi mới hoạt động thanh tra của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
1.1. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
1.1.1. Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng và hoạt động quản lý Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trên thế giới gắn liền với sự phát triển của trình độ sản xuất và tiến bộ của xã hội loài người. Đến những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các Ngân hàng thương mại trên thế giới nhất là ở Mỹ và các nước Tây Âu đã phát triển mạnh, cùng giai đoạn lịch sử đó đã xuất hiện ngân hàng phát hành - đó là Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ phát hành tiền, nhận tiền gửi và cho vay đối với các Ngân hàng thương mại. Đến thời kỳ này, hệ thống Ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường đã được xác lập và phát triển thành hệ thống Ngân hàng hiện đại. Các Ngân hàng đã và đang có những bước phát triển và hoàn thiện, thể hiện tính đa dạng và phong phú về thể chế; sự phân hoá thành những ngân hàng lớn và nhỏ trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường; chất lượng hoạt động nghiệp vụ không ngừng được nâng cao trở thành công nghệ ngân hàng hiện đại như ngày nay.
Sự mở rộng về quy mô và không ngừng được nâng lên về chất lượng của các Ngân hàng thương mại cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương và xu hướng toàn cầu hoá hoạt động ngân hàng, làm cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại không chỉ bị giới hạn trong mỗi quốc gia mà nó được phát triển mở rộng sang nhiều nước khác. Lúc này, sự chu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu cũng vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và mang tính quốc tế.
Mặt khác, mục tiêu của các Ngân hàng thương mại là tìm kiếm lợi nhuận, sự tìm kiếm này không chỉ ở trong nước mà còn được thực hiện cả ở nước ngoài. Khi các Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài thì không chỉ là nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn, mà còn đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của mình trong sự cạnh tranh ngày càng gat gắt của thị trường.
Với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận nên các Ngân hàng thương mại nhiều khi coi nhẹ việc tuân thủ luật pháp và các quy chế an toàn, có trường hợp không phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là loại kinh doanh gặp nhiều rủi ro nhất trong các loại kinh doanh. Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh tiền tệ mà các Ngân hàng thương mại thường gặp phải là:
- Rủi ro lãi suất,
- Rủi ro hối đoái và tỷ giá,
- Rủi ro hệ thống,
- Rủi ro môi trường,
- Rủi ro cơ chế v.v...
Ở nước ta, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, Đảng ta yêu cầu "chuyển mạnh hoạt động của Ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa " [10]. Theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1998 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), vào giữa năm 1988 chúng ta đã chuyển hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, đó là Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng.
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật, mục tiêu chính của các Ngân hàng thương mại là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; nhưng phải tuân thủ nghiêm túc luật pháp và các quy chế. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro như đã phân tích ở trên. Vì vậy, để hạn chế những vi phạm của các Ngân hàng thương mại, giúp các Ngân hàng thương mại tránh được rủi ro đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước thông qua một cơ quan chức năng, đó là Ngân hàng Trung ương (ở nước ta là Ngân hàng Nhà nước) và thường được giao chủ yếu cho Thanh tra Ngân hàng. Điều này được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng, đó là: "Các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải chịu sự thanh tra của Thanh tra Ngân hàng theo quy định của pháp luật " [5].
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước ta, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
" - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước;
- Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam;
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia, tách, hợp nhất, sát nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ;
- Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế;
- Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng;
- Ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật;
- Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ uỷ quyền;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng" [5].
Trong các chức năng trên, chức năng kiểm tra, thanh tra được giao chủ yếu cho Thanh tra Ngân hàng và tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Ngân hàng cũng được quy định cụ thể trong Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, do chủ trương "đổi mới" quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, kinh tế trong nước được kích thích và phát triển thông qua việc xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, Nhà nước thừa nhận vai trò của kinh tế hàng hoá với chủ trương "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, Đảng và Nhà nước ta cũng thực hiện "mở cửa" nền kinh tế nước ta với tất cả các nước, tạo cơ sở cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào nước ta. Theo đó, nhiều ngân hàng nước ngoài đã xin phép Nhà nước để đầu tư vào nước ta dưới hình thức liên doanh (Ngân hàng liên doanh) hoặc thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài (Chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
1.1.2. Sự phát triển của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta
Sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nhu cầu về vốn ngày càng tăng, nguồn vốn trong nước không đủ để đáp ứng. Do đó, cùng với việc hình thành ngân hàng hai cấp và chủ trương "mở cửa" của Đảng và Nhà nước, các ngân hàng nước ngoài đã dần có mặt hoạt động tại nước ta.
Ngay từ những năm cuối thập niên 80, nhiều ngân hàng nước ngoài của các nước đã đến tìm hiểu thị trường Việt Nam đề đầu tư. Năm 1989, ngân hàng nước ngoài đầu tiên được Nhà nước ta cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện. Đến năm 1990, Ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức liên doanh theo Luật đầu tư nước ngoài.
Từ khi Ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại nước ta năm 1990, hiện nay (tháng 12/2006) trên đất nước ta đã có 6 Ngân hàng liên doanh, 37 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 60 văn phòng đại diện của Tổ chức Tín dụng nước ngoài đang hoạt động cùng với các Tổ chức Tín dụng trong nước càng làm cho hoạt động tài chính - tiền tệ nước ta phong phú, đa dạng và sôi động hơn.
1.1.3. Những đặc điểm chủ yếu của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại nước ta
Theo Luật "Các Tổ chức Tín dụng" được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 15/6/2004, theo khoản 4, Điều 20 "Tổ chức Tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo luật pháp nước ngoài". Tại Chương VII, Luật này về "Tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam" quy định hình thức hoạt động của Tổ chức tín dụng nước ngoài (Điều 105) gồm:
- Tổ chức tín dụng liên doanh;
- Tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài;
- Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
- Tổ chức tín dụng nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài không được thực hiện các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Với những quy định trong Luật "Các tổ chức tín dụng" trên đây và Luật "Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam", đặc điểm của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là:
+ Được thành lập theo luật pháp nước ngoài;
+ Đối với Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh;
Ngoài hai đặc điểm theo quy định của Luật, Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn một số đặc điểm tác động đến hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước, đó là:
+ Tổng giám đốc các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp với Ngân hàng Nhà nước thường là tiếng Anh. Chữ viết dùng trong các tài liệu giao dịch của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là tiếng Anh, một số tài liệu sử dụng chữ viết của nước nguyên xứ.
+ Có nhiều quy định giới hạn hoạt động của các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các Ngân hàng trong nước, như: Không được huy động tiết kiệm từ dân cư; vốn huy động từ các tổ chức và cá nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với Ngân hàng không được vượt 30% vốn tự có .v.v...
+ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài không được quy định là một pháp nhân Việt Nam.
+ Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thường đặt trụ sở ở những nơi có hoạt động "kinh tế thị trường" phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu nhằm thu được lợi nhuận cao, điều này được thể hiện rõ qua biểu đồ 1.1
Biểu đồ 1.1: Sự phát triển về số lượng Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1990 – 2006
Đơn vị: Ngân hàng
TT
Chỉ tiêu
1990
1993
1995
1997
1999
2001
2004
2006
1
Miền Bắc
0
5
9
13
14
16
20
21
2
Miền Nam
1
7
13
15
16
18
23
25
(Nguồn: Báo cáo Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 1990-2006)
+ Trong quá trình hoạt động tại Việt Nam, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài vừa phải tuân thủ luật pháp, quy chế của Việt Nam; đồng thời phải tuân thủ luật pháp của nước nguyên xứ. Như vậy, nó bị điều chỉnh bởi hai hệ thống pháp luật.
+ Hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ, mà hoạt động của nó có quan hệ với nhiều nước (hiện tại là quan hệ vay, gửi tiền và thanh toán; trong tương lai sẽ còn được mở rộng hơn khi hoạt động của thị trường chứng khoán phát triển và mở rộng).
1.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
a- Những ảnh hưởng từ hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với Việt Nam hiện nay
Như trên đã đánh giá, hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta cùng các ngân hàng trong nước đã làm cho hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ nước ta phong phú, đa dạng hơn. Mặt khác, hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng có những ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động kinh tế nói chung và các ngân hàng của Việt Nam nói riêng, đó là:
+ Đối với các hoạt động kinh tế của Việt Nam: Với tổng tài sản gần 35 nghìn tỷ đồng, dư nợ cho vay 20 nghìn tỷ đồng năm 2006 (bảng số 2.2), hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế của nước ta, tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, nếu không có sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì việc đầu tư của các ngân hàng này sẽ vì mục tiêu lợi nhuận mà xem nhẹ mục tiêu phát triển cân đối nền kinh tế.
+ Đối với các ngân hàng của Việt Nam: do có sức mạnh về vốn, công nghệ và điều kiện cạnh tranh trong hoạt động theo cơ chế thị trường, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng trong nước như đối với nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh và thực hiện các dịch vụ v.v... Do đó, nếu không có sự quản lý sẽ tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chèn ép các ngân hàng trong nước, làm cho hệ thống các ngân hàng trong nước suy giảm do không đủ sức để cạnh tranh.
b- Đối với bản thân các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngoài số vốn được cấp để được hoạt động theo Luật định, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam (gọi tắt là ngân hàng nước ngoài) còn hoạt động bằng số vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Trong khi vốn được cấp thường chỉ chiếm tỷ trọng trên dưới 20% tổng tài sản của một ngân hàng thì để đảm bảo an toàn và ổn định trong kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước phải tổ chức quản lý và thực hiện giám sát hoạt động đầu tư của các ngân hàng nước ngoài nhằm mục đích để các ngân hàng này phải luôn trong trạng thái an toàn. Nó được thể hiện:
- Thứ nhất, đảm bảo chắc chắn rằng Ngân hàng nước ngoài đó phải có đủ khả năng chi trả thường xuyên cho người gửi tiền, kể cả khi khách hàng rút tiền ồ ạt. Đây là việc đảm bảo niềm tin, là tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi ngân hàng nước ngoài trong cơ chế thị trường. Bởi vì một khi niềm tin này bị giảm sút, thì năng lực thu hút vốn của ngân hàng nước ngoài này bị giảm sút, do đó sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, thậm chí có thể mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản.
Biện pháp đảm bảo để thoả mãn vấn đề này là phải quản lý tài sản ở trạng thái động trong tổng số tiền dự trữ của mỗi đơn vị, nghĩa là làm sao để mỗi ngân hàng nước ngoài luôn có một lượng vốn có thể đáp ứng được khả năng chi trả cho người gửi tiền. Yêu cầu của việc quản lý này là sao cho ngân hàng nước ngoài luôn luôn đảm bảo khả năng chi trả, nhưng lại không để lãng phí vốn, nghĩa là giảm thấp tối đa rủi ro trong sử dụng vốn vào kinh doanh. Việc đảm bảo khả năng chi trả của một ngân hàng nước ngoài không chỉ đơn thuần là đề phòng việc rút tiền ồ ạt của khách hàng và giữ niềm tin với người gửi tiền, mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tài chính, đến thu nhập và dẫn đến thua lỗ, phá sản của ngân hàng nước ngoài.
Nếu một ngân hàng nước ngoài quản lý tài sản không đủ mức cần thiết, thì để loại bỏ tình trạng thiếu hụt khả năng chi trả, ngân hàng nước ngoài đó có thể thực hiện nhiều biện pháp khác như: có thể giảm số tiền cho vay tương ứng, hoặc phải đôn đốc thu về một khoản vay chưa đến hạn; cũng có thể bán đi một số tài sản mà mình đang nắm giữ (như trái phiếu, tín phiếu v.v...) và như vậy, ngân hàng nước ngoài phải chịu phí tổn do những phương tiện mình đang quản lý ở tình trạng kém động, khi đó rủi ro kinh doanh xảy ra. Một biện pháp khác là ngân hàng nước ngoài phải vay tái chiết khấu từ Ngân hàng Trung ương; trong nghiệp vụ này, ngân hàng nước ngoài phải chịu phí tổn cao hơn, đó là lãi suất tái chiết khấu. Nếu trường hợp này xảy ra nhiều lần thì Ngân hàng Trung ương phải có biện pháp "khép cửa sổ chiết khấu" lại; và khi đó, ngân hàng nước ngoài phải có biện pháp đối phó với tình trạng vỡ nợ của mình. Một biện pháp khác là vay tiền các ngân hàng thương mại khác, thậm chí từ các tổ chức kinh tế đang có vốn tạm thời nhàn rỗi; nhưng việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nếu tình trạng trên kéo dài sẽ dẫn đến giá trị tài sản sụt dưới mức nguồn, làm cho ngân hàng nước ngoài không trả được nợ, dẫn đến mất khả năng thanh toán và sẽ bị phá sản.
Vì vậy việc quản lý tiền dự trữ là nghệ thuật trong điều hành hoạt động kinh doanh của người quản lý ngân hàng nước ngoài trong nền kinh tế thị trường, nó nhằm đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên xuất phát từ yêu cầu tạo và giữ niềm tin trong kinh doanh ngân hàng. Việc theo dõi, báo động để giúp cho ngân hàng nước ngoài thường xuyên đảm bảo khả năng chi trả là trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương trong quản lý vĩ mô. Thực hiện trách nhiệm này, Ngân hàng Trung ương phải thông qua các hoạt động quản lý mà nó được thực hiện chủ yếu bởi hoạt động, giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng, đặc biệt là việc giám sát thường xuyên và định kỳ. Đó là việc phân tích các loại báo cáo do các chi nhánh ngân hàng nước ngoài gửi định kỳ đến Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Mục đích của việc này là nhằm xem xét chất lượng tài sản, việc chấp hành các quy chế quản lý nhằm phát hiện kịp thời sự biến động của các tài khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản tiền dự trữ của bản thân ngân hàng nước ngoài để dự báo, chỉ điểm và ứng cứu khi cần thiết.
- Thứ hai, là vấn đề quản lý tài sản của ngân hàng nước ngoài, tức là đảm bảo chất lượng kinh doanh, yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng nước ngoài. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, để tạo ra thu nhập thì phải tổ chức sản xuất kinh doanh như thế nào để có sản phẩm hàng hoá tốt, giá thành hạ, được nhiều khách hàng tín nhiệm, tiêu thụ và thu hồi vốn nhanh. Đối với các ngân hàng nước ngoài thì cũng tương tự như vậy, có điều "hàng hoá" của các ngân hàng là loại hàng hoá đặc biệt, nó thể hiện ở chỗ:
+ Chỉ chuyển quyền sử dụng hàng hoá (tiền tệ) cho người vay trong một thời gian nhất định theo phương thức tùy thuộc vào bên vay nó theo hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng, do đó phải có biện pháp quản lý, theo dõi để thu hồi lại một cách tốt nhất;
+ Vốn cho vay của các ngân hàng luôn thuộc quyền sử dụng của khách hàng, nghĩa là nó nằm trong tay khách hàng và do khách hàng quản lý, sử dụng; chỉ khi nào thu hồi cả gốc và lãi, kết thúc hoạt động của tài khoản cho vay hoặc kết thúc một cam kết về thanh toán, chuyển tiền .v.v... thì hoàn thành chu kỳ kinh doanh, nên rất khó tính hiệu quả. Do đó yêu cầu về chế độ hạch toán và tài chính phải rõ ràng, nghiêm túc và thuận lợi.
+ Độ rủi ro cao và khả năng mất vốn luôn có thể xảy ra; việc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chất lượng hoạt động kinh doanh của khách hàng là rất quan trọng. Do đó mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn là vấn đề cần quan tâm thường xuyên để tránh rủi ro trong cho vay.
Từ những vấn đề trên cho thấy quan hệ với khách hàng và tiêu thụ hàng hoá của ngân hàng không giống với các ngành kinh doanh khác.
Các ngân hàng nước ngoài thu lợi nhuận chủ yếu từ nghiệp vụ cho vay. Ở Mỹ, 67% tài sản của các Ngân hàng là ở nghiệp vụ cho vay và trong những năm gần đây tạo ra hơn 60% thu nhập của các Ngân hàng. Đối với nước ta, nghiệp vụ cho vay của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng chiếm tỷ trọng rất lớn (khoảng 60% tổng tài sản) và tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho các tổ chức tín dụng với tỷ trọng hơn 70% tổng thu nhập (số liệu báo cáo của một số Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tổng tài sản trên 100 triệu USD năm 2003, 2004, 2005). Năm 1998, 1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, hoạt động cho vay của một số ngân hàng có giảm và chuyển sang đầu tư bằng cách gửi tiền ở các ngân hàng khác, làm cho tỷ trọng dư nợ cho vay và thu lãi từ nghiệp vụ cho vay có bị giảm so với các năm trước.
Trong nghiệp vụ ch