Từ khi nền kinh tế thị trường hình thành và dần dần thay thế các hình thái kinh tế xã hội trước kia, cạnh tranh đã trở thành quy luật kinh tế phổ biến ;các hình thức cạnh tranh ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là vào thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và hiện nay những năm đầu của thế kỷ mới, như một động lực thúc đẩy và là kết quả của các xu hướng liên kết kinh tế: toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế,
64 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính tại Công ty Thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu.
Từ khi nền kinh tế thị trường hình thành và dần dần thay thế các hình thái kinh tế xã hội trước kia, cạnh tranh đã trở thành quy luật kinh tế phổ biến ;các hình thức cạnh tranh ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là vào thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và hiện nay những năm đầu của thế kỷ mới, như một động lực thúc đẩy và là kết quả của các xu hướng liên kết kinh tế: toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cạnh tranh lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong môi trường kinh doanh như vậy, để tồn tại và phát triển ,các doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh và hơn thế nữa, phải biết kinh doanh có hiệu quả. Để đạt hiệu quả cao nhất với cơ sở vật chất, tiền vốn và lao động không hạn, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định được phương hướng, biện pháp đầu tư và sử dụng các điều kiện nguồn lực hiện có một cách tối ưu nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thiết phải nắm được những nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ, xu hướng của từng yếu tố; và hơn hết doanh nghiệp phải tự biết mình là ai? ở đâu? điểm mạnh, điểm yếu, những tiềm năng phát triển và thách thức trong tương lai? Vậy doanh nghiệp phải làm gì?
Câu trả lời nằm ở "Phân tích tài chính doanh nghiệp". Bởi chính hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đem lại cho các nhà quản lý doanh nghiệp nói chung và quản trị tài chính doanh nghiệp nói riêng những thông tin chính xác kịp thời và tương đối đầy đủ về tình hình thực hiện công tác tài chính tại doanh nghiệp trong quá khứ đưa ra những mặt được và chưa được, từ đó giúp họ đưa ra các quyế định quản lý cũng như tài chính phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại, tận dụng cơ hội tương lai để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và an toàn.
Trong nền kinh tế thị trường, ta thấy có nhiều chủ thể kinh tế khác nhau cùng tham gia vào các quá trình kinh tế, họ đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ kinh tế trước pháp luật. Trong khi các doanh nghiệp không thể tự mình tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần đến các quan hệ kinh tế - tài chính với các chủ thể kinh tế khác thì cũng dễ hiểu khi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng là mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của các đối tác kinh tế của doanh nghiệp như chủ ngân hàng, nhà cung ứng, khách hàng, người lao động... Mỗi đối tượng cần những thông tin phân tích tài chính ở những mức độ khác nhau để có thể đưa ra những quyết định tài chính và đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra khi thiết lập quan hệ tài chính với doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của Phân tích tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là tại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, khi đang trong quá trình hoàn thiện về cơ chế quản lý và vận hành, dần từng bước tiến lên nền sản xuất hiện đại theo định hướng XHCN; đặc biệt là sau thời gian nghiên cứu về chuyên ngành tài chính doanh nghiệp tại khoa Ngân hàng-Tài chính và sau thời gian thực tập tại công ty Thương Mại và Đầu tư phát triển Hà Nội Tôi đã quyết định chọn dề tài "Giải pháp hoàn thiện công tác Phân tích tài chính tại Công ty Thương mại và đầu tư phát triển Hà Nội" làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng công tác Phân tích tài chính tại Công ty Thương Mại và Đầu tư phát triển Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Thương Mại và Đầu tư phát triển Hà Nội
Với trình độ và thời gian có hạn cho nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Em mong được sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các chú trong ban lãnh đạo Công ty để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Cô Lê Hương Lan và các cô chú trong Ban lãnh đạo Công Ty Thương Mại và Đầu Tư Phát Triển Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG 1: TổNG QUAN Về HOạT ĐộNG PHâN TíCH tài chính DOANH NGHIệP TRONG NềN KINH Tế.
1. Tính tất yếu của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế.
khái niệm về doanh nghiệp và hoạt động tài chính tại doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu của doanh nghiệp và phát triển. Doanh nghiệp được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu về tài chính các quan hệ tài chính, Doanh nghiệp được phân chia theo hình thức sở hữu thành nhiều loại khác nhau như Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu điểm và những nhược điểm riêng do đặc thù của ngành nghề kinh doanh song bản chất và nội dung của hoạt động tài chính và quản lý tài chính về cơ bản là giống nhau.
Mỗi doanh nghiệp từ khi thành lập và đăng ký kinh doanh đã phải xác định cho mình những vấn đề sau:
Xác định ngành nghề và mặt hàng kinh doanh.
Xác định quy mô và phạm vi hoạt động.
Xác định nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh
Lên các phương án, kế hoạch chiến lược và chiến thuật kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn.
Các vấn đề trên chỉ được thực hiện khi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Nó đề cập đến mọi hoạt động từ đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phân phối lợi nhuận đến tái sản xuất mở rộng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp đó. Hoạt động tài chính được thực hiện nhằm trả lời câu hỏi:
Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã lựa chọn và đạt tới mục tiêu của mình.
Nguồn vốn doanh nghiệp cần có cho hoạt động kinh doanh huy động từ đâu? bằng cách nào? để có được cơ cấu vốn tối, với chi phí vốn thấp nhất.
Hoạt động phân phối tại doanh nghiệp như thế nào để vừa đảm bảo doanh nghiệp đạt được trạng thái cân đối tài chính vừa đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai, không ngừng mở rộng thị trường, tăng cường đóng góp cho nền KTQD.
Hoạt động tài chính được biểu hiện qua các dòng tài chính và dự trữ tài chính. Sự chuyển hoá giữa chúng được biểu hiện trong các báo cáo tài chính. Quan hề giữa chúng là nền tảng của hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Muốn sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp cần phải có yếu tố đầu vào như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhân lực… Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào Tài sản. Tại những thời điểm nhất định, Tài sản của doanh nghiệp được phản ánh bên trái của bảng cân đối kế toán với hai loại là tài sản lưu động và tài sản cố định.
Lật lại vấn đề, ta thấy, muốn đầu tư vào tài sản, đương nhiên doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ. Hay nói cách khác, doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn đầu tư. Doanh nghiệp có thể tự tài trợ bằng hình thức góp cổ phần, nhận vốn từ NSNN; hoặc có thể huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp bằng hình thức đi vay Ngân hàng, đi vay khách hàng. Khi đã đủ vốn để tài trợ cho tài sản và tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp phải xác định thu nhập, chi phí từ các hoạt động, xác định các luồng tiền thực nhập quỹ, thực xuất quỹ để xác định kết quả kinh doanh. Như vậy, ta thấy dòng tài chính được thể hiện thông qua báo cáo kết quả kinh doanh và bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Xét các dòng tài chính ở những thời điểm nhất định, ta xác định dược các dự trữ tài chính. Chúng được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán. Nếu như các quan hệ tài chính được tiến hành qua các chu kỳ kinh doanh tạo ra các dòng tài chính không ngừng vận động thì nhờ chúng, doanh nghiệp có nguồn tài chính để tổ chức kinh doanh. Và ngược lại, dòng tài chính luân chuyển trôi chảy trong suốt chu kỳ sản xuất kinh doanh và trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp lại chứng tỏ rằng các quan hệ tài chính được thiết lập tại doanh nghiệp là sự lựa chọn đúng đắn và bền vững dựa trên cơ sở lợi ích của các bên.
Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với bên ngoài (nhà đầu tư, chủ ngân hàng). Đây là mối quan hệ tiền đề tài ra nguồn vốn đủ về khối lượng và chất lượng. Nếu khai thác tốt, doanh nghiệp sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu.
Quan hề tài chính trong nội bộ doanh nghiệp (với người lao động, với các cổ đông). Tận dụng tốt mối quan hệ này, doanh nghiệp sẽ tạo ra một khả năng độc lập về mặt tài chính và sự đoàn kết nội bộ.
Quan hề tài chính giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý cấp trên. Đây là mối quan hệ kiểm soát và bị kiểm soát. Tận dụng tốt mói quan hệ này, doanh nghiệp sẽ tạo được những ưu thế so với những đơn vị khác trong và ngoài ngành trong khi vẫn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với NSNN.
Như vậy, hoạt động tài chính và các quan hệ tài chính là nội dung cơ bản trong quản trị tài chính doanh nghiệp. Nó liên quan tới việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung tại doanh nghiệp. Và nhiệm vụ chủ yếu của các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp là phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các luồng tài chính và dự trữ tài chính và sự vận động của chúng một cách khoa học; trên cơ sở đó, đưa ra những quyết định có giá trị về các quan hề tài chính và hướng tới mục đích hàng đầu mà doanh nghiệp theo đuổi.
1.2.Tính tất yếu của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Như ta đã biết, hoạt động tài chính tại doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng với sự thể hiện ở trạng thái động của các dòng tài chính và ở trạng thái tĩnh của các dự trữ tài chính. Các hoạt động này được hình thành từ các quan hề tài chính. Trong đó, mỗi bên đều quan tâm tới lợi ích mà họ momg muốn đạt được từ quan hệ đó. Có nghĩa là, mỗi bên quan tâm toí những thông tin từ những khía cạnh khác nhau:
Đối với chủ doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp: cái họ quan tâm là tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường, mức độ rủi ro tài chính, …
Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp (chủ nhà băng và các chủ nợ khác): cái họ quan tâm hàng đầu là khả năng thanh toán các khoản nợ khi toí hạn bao gồm cả gốc và lãi mà không cần biết đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với người lao động: Đây là nhóm đối tượng liên quan trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cái họ quan tâm là khả năng chi trả các khoản tiền lương đúng hạn và sự ổn định việc làm lâu dài.
Đối với nhà đầu tư: Mối quan tâm hàng đầu của họ là giá trị doanh nghiệp. Họ kỳ vọng vào khả năng sinh lời, tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua mức tăng trưởng đều của giá trị cổ phiếu trên thị trường và cổ tức trả lãi cho các cổ đông trên cơ sở an toàn tài chính.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ quản…) không chỉ thực hiện việc giám sát, kiểm tra tình hình kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, mà còn theo dõi khả năng hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, lợi ích kinh tế -xã hội mà hoạt động của doanh nghiệp đem lại cho nền kinh tế, để từ đó kịp thời điều chỉnh vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo những chủ trương, định hướng của Đảng và Chính phủ.
Như vậy, mỗi đối tượng lại quan tâm tới mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ thông qua các báo cáo tài chính thì chưa đủ thoả mãn yêu cầu của người sử dụng thông tin. Do đó, họ thường phải sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản để phân tích, thuyết minh các mối quan hệ chủ yếu trong các báo cáo tài chính nhằm đưa ra quyết định tài chính. Đó chính là nhờ hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ cho phép thu thập và xử lý thông thi kế toán cũng như những nguông thông tin khvs trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm năng của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính và quản lý phù hợp.
Với khái niệm trên phân tích tài chính phải đạt được các mục tiêu sau đây:
Cung cấp đầy đủ thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các tín chủ và những đối tượng có nhu cầu sử dụng khác giúp họ đưa ra các quyết định đúng đắn.
Cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay và các đối tượng khác trong việc đánh giá khả năng, tính chắc chắn của các dong tiền mặt và tình hình sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tình hình vầ khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình, sự kiện và các tình huống làm biến đổi cơ cấu nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp.
2. Nội dung của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế.
2.1. Các bước tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp.
2.1.1 Thu thập thông tin.
Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Cũng trong bước này, mục đích phân tích phải dược xác định rõ ràng; mà dựa vào đó, những nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin phù hợp.
Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ thông tin nội bộ đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thôn tin kế toán đén các thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị..., trong đó, thông tin kế toán được coi là nguồn quan trọng nhất được phản ánh trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
2.1.2 Xử lý thông tin.
Đây là bước thứ 2 tiếp sau quá trình thu thập thông tin. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin phải thực hiện công đoạn phân loại thông tin theo những tiêu thức nhất định phù hợp với mục tiêu phân tích đã xác định ở bước 1, tiến hành nghiên cứu và xử lý chúng bằng những công cụ và phương pháp nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định các nguyên nhân của các kết quả đạt được và xu hướng vận động của các đối tượng phục vụ cho quá trình tiếp theo.
Nhưng phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công việc tổng hợp và sắp xếp số liêu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở giai đoạn này, các chuyên gia phân tích tài chính phải biết dặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ biện chứng với các đối tượng khác trong các báo cáo tài chính và trong mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế được đặt ra bởi các đối tác tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ như để hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp được chấp nhận thì một chủ nhà băng phải không thấy được những dấu hiệu bất ổn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, cũng như về khả năg sinh lời cần thiết trong tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng chính là duy trì một lượng ngân sách bằng tiền mặt kết hợp với các loại chứng khoán thanh khoản; lên kế hoạch sử dụng nguồn vốn, quản lý tài sản, kế hoạch về thu nhập, chi phí ...
Mỗi đối tượng đều đưa ra cho doanh nghiệp những tiêu chuẩn khác nhau song nhìn chung, đều nhằm vào 4 mục tiêu: khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, khả năng cân đối tài chính và mức độ rủi ro.
2.1.3 Dự đoán và ra quyết định.
Đây là giai đoạn cuối cùng, là mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu 2 giai đoạn trên được thực hiện theo đúng thứ tự và đúng nguyên tắc thì kết quả của giai đoạn này chỉ còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của những người sử dụng thông tin.
Dự đoán và ra quyết định được thực hiện sẽ xây dựng lên bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng của doanh nghiệp trong quá khứ. Qua đó, mỗi đối tượng khác nhau khi sử dụng các kết quả phân tích để đưa ra các quyết định riêng của mình trong tương lai đáp ứng mục tiêu đã lựa chọn ở giai đoạn 1.
Đối với chủ doanh nghiệp, nhà quản lý doanh nghiệp: đó là quyết định có liên quan tới mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư và chủ nợ của doanh nghiệp: đó là các quyết định tài trợ và đầu tư.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: đó là các quyết định quản lý doanh nghiệp
2.2 Nguồn thông tin sử dụng.
Như đã đề cập ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng chủ yếu các số liệu kế toán được phản ánh trong các báo cáo tài chính. Vì vậy, chủ yếu nguồn thông tin được sử dụng là các báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp các số liệu từ các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phat sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định.
Thông thường, hệ thông các báo cáo tài chính doanh nghiệp gồm 4 loại sau:
- Bảng cân đối kế toán: là bảng tổng hợp- cân đối tổng thể phản ánh tình hình vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời điểm nhất định thường là ngày cuối cùng của năm tài chính. Đây là tài liệu quan trọng nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình đọ sử dụng vốn ở một thời điểm xác định và triển vọng của doanh nghiệp. Thực chất bảng cân đối kế toán là bảng cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu nội bảng và ngoại bảng
- Báo cáo kết quả kinh doanh: nếu như bảng cân đối kế toán cho ta biết toàn cảnh tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm thì báo cáo kết quả kinh doanh lại cho ta biết tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh từ các hoạt động trong cả một thời kỳ. Tài liệu này được lập trên cơ sở các báo cáo kết quả kinh doanh trước đó và số dư cuối kỳ trên các sổ chi tiết theo dõi các tài khoản phản ánh thu nhập, phản ánh chi phí và tài khoản phản ánh kết quả. Thông qua báo cáo này, các nhà phân tích tài chính có thể đánh giá hiệu quả trong các hoạt động của doanh nghiệp (hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư) băng cách sử dụng các chỉ tiêu có tính chất định lượng về tương đối và tuyệt đối. Đây là phương pháp thường được sử dụng nhất trong phân tích tài chính doanh nghiệp có tác dụng nhận biết xu hướng vận động của các đối tượng tài chính.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: ta đã biết rằng hoạt động tài chính là sự khái quát các dòng và các dự trữ tài chính. Một nhiệm vụ quan trọng của nhà phân tích là phải kiểm soát được sự thường xuyên vận động của các luông tiền tệ thực nhập quỹ và thực xuất quỹ, tình hình đầu tư, tài trợ bằng tiền của doanh nghiệp. Báo cáo trên được sử dụng để cung cấp thông tin về các luồng tiền ra, vào, các khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro như lỗ về mặt giá trị do sự biến động của lãi suất hay tỷ giá... Những luồng tiền này được tổng hợp và xếp thành 3 nhóm:luồng tiền có nguồn gốc từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động tài chính, từ hoạt động đầu tư.Như vậy ta thấy, báo cáo này không phản ánh về tài sản, nguồn vôn, kết quả kinh doanh hay tinh hình thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN mà phản ánh về sự biến động quỹ tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ, tạo cơ sở để phân tích khả năng thanh toán, sự đảm bảo chắc chắn sẽ duy trì một mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán thấp nhấtcó thê trong hiện tại trước những khoản nợ tới hạn, những khoản nợ mới và mới được gia hạn trong tương lai.
- Bản thuyết minh các báo cáo tài chính: đây là một báo cáo quan trọng của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, có tính chất bổ sung, hoàn thiẹn thông tin cho ba báo cáo tài chính trên. Đó là những thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh (hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt động, lĩnh vực kinh doanh...), chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, chi tiết một số chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính (chi phí sản xuất kinh doanh, tình hình tăng giảm tài chính cố định, tình hình thu nhập của công nhân viên, tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản phải thu và nợ phải trả... )
Ngoài thông tin từ các báo cáo tài chính, phân tích tài chính còn có thể sử dụng thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp. Đó là những chỉ ti