Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng ngày càng mạnh mẽ. Nếu không bắt nhịp với xu thế đó các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ không tồn tại trên thị trường hiện nay. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực vốn lớn, trang thiết bị kỹ thuật với công nghệ hiện đại,
73 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1467 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp khai thông nguồn vốn tín dụng đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng ngày càng mạnh mẽ. Nếu không bắt nhịp với xu thế đó các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ không tồn tại trên thị trường hiện nay. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực vốn lớn, trang thiết bị kỹ thuật với công nghệ hiện đại, trình độ quản lý chuyên sâu cũng như phong cách làm việc nhanh chóng và hiệu quả đã và đang thu hút được không chỉ đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổng công ty Nhà nước mà còn cả các DNVVN. Do vậy các ngân hàng thương mại Việt Nam đang đứng trước thử thách lớn để đứng vững trên thị trường và giữ thị phần tiềm năng trong nước.
DNVVN chiếm số đông trong tổng doanh nghiệp ở Việt Nam. Hiện nay, số lượng DNVVN là 240000, chiếm 96% doanh nghiệp của cả nước. Với sự gia tăng liên tục về số lượng và hoạt động ngày càng hiệu quả, Các DNVVN được đánh giá là một trong những động lực chính thức đẩy nền kinh tế phát triển, khuyến khích quá trình tư nhân hóa và phát triển kỹ năng kinh doanh. Mặc dù với quy mô không lớn nhưng cơ cấu gọn nhẹ, linh hoạt và thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi của môi trường. DNVVN đã giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế và đóng góp lớn vào GDP và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Chính vì vậy, các DNVVN không chỉ trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách mà còn là mối quan tâm chủ đạo đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi thiết lập đối tượng khách hàng mục tiêu. Đây là đối tượng khách hàng tiềm năng của ngân hàng mà nếu có sự quan tâm đầu tư đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho DNVVN dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
Vấn đề bất cập hiện nay, các DNVVN đang gặp phải rất nhiều khó khăn về vốn. Số DNVVN được vay vốn từ ngân hàng rất hạn chế (đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh) bởi một phần do bản thân doanh nghiệp và một phần từ phía ngân hàng. Trong 100 hồ sơ vay vốn tại ngân hàng ngẫu nhiên của các DNVVN thì chỉ có khoảng từ 35 – 40 hồ sơ có thể được chấp nhận cấp vốn. Như vậy, khả năng tiếp cận vốn ngân hàng thương mại của các DNVVN vẫn còn nhiều hạn chế.Nhu cầu về vốn của DNVVN rất lớn và không ngừng tăng lên mà các ngân hàng thì yêu cầu tài sản thế chấp cao, khiến DNVVN không đáp ứng được. Điều này không hề lợi cho cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Doanh nghiệp không có vốn để sản xuất kinh doanh và ngân hàng không mở rộng được thị phần, lợi nhuận cũng không cao, từ đó kéo theo nền kinh tế kém phát triển. Trước tình hình đó, buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải xây dựng chiến lược kinh doanh để thu hút khách hàng, xác định cho mình đối tượng khách hàng mục tiêu phù hợp để có những giải pháp nhằm không ngừng phát triển mối quan hệ với khách hàng, tạo uy tín trong lòng khách hàng.
Xuất phát từ thực trạng trên, sau một thời gian thực tập tại phòng giao dịch số 5 - Nguyễn Du - MB, và được tìm hiểu những chủ trương chính sách của MB. Bởi vậy, em đã chọn đề tài “Giải pháp khai thông nguồn vốn tín dụng đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Chuyên đề nghiên cứu thực trạng từ phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như từ phía ngân hàng hiện nay để từ đó thấy được những hạn chế và nguyên nhân trong tín dụng đối với DNVVN.
Nghiên cứu những chỉ tiêu chung về khai thông nguồn vốn tín dụng đối với DNVVN, từ đó đánh giá thực trạng hoạt động khai thông nguồn vốn tín dụng đối với DNVVN tại ngân hàng.
Cuối cùng, chuyên đề sẽ đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần khai thông nguồn vốn tín dụng cho các DNVVN tại MB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng khai thông nguồn vốn tín dụng đối với DNVVN tại MB.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại MB trên địa bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và thực tiễn như: Phương pháp tư duy biện chứng, suy luận logic và kết hợp phương pháp duy vật lịch sử sử dụng số liệu thực tế để luận giải thông qua các phương pháp : So sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích…
5. Kết cấu của chuyên đề:
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại MHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNVVN trên địa bàn Hà Nội tại MB từ năm 2006 đến năm 2008.
Chương 3: Giải pháp khai thông nguồn vốn tín dụng đối với DNVVN trên địa bàn Hà Nội tại MB.
Vì thời gian thực tập không nhiều và kiến thức thực tế còn hạn hẹp nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong sự đóng góp của thầy và các anh chị cán bộ phòng giao dịch số 5 - Nguyễn Du – MB cùng những ai quan tâm đến đề tài này để giúp cho chuyên đề được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHTM:
1.1. Khái niệm:
NHTM là một tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế, là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Có rất nhiều khái niệm về NHTM, nhưng khái niệm có thể nói là chung nhất là: NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một doanh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
a. Huy động vốn:
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn kinh doanh của NHTM. Đây là hoạt động đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động, đến khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền tệ (nội tệ và ngoại tệ) và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận là vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
- Vốn huy động từ tiền gửi:
Để huy động vốn, các NHTM đã cung cấp rất nhiều loại tiền gửi khác nhau cho khách hàng lựa chọn. Các NHTM nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư và tiền gửi khác.
+ Tiền gửi của tổ chức kinh tế gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
+ Tiền gửi của dân cư gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán.
+ Tiền gửi khác như: Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi của tổ chức đoàn thể xã hội…
Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Đây là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng sử dụng cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác.
- Vốn huy động thông qua phát hành các giấy tờ có giá:
Đây là nguồn vốn mà NHTM có được thông qua phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi… Các kỳ phiếu và trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền mặt khi cần, bằng cách bán chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân hàng. Với cách huy động này ngân hàng có thể tập trung được một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và chủ động sử dụng. Hình thức này được sử dụng khi ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng. Tuy nhiên, khi cần nóng thì ngân hàng có thể vay thêm NHTM, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn…
b. Hoạt động sử dụng vốn:
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng.
- Cho vay: là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả, có lãi suất và thời hạn nhất định. Quan hệ này phải được thỏa thuận dựa theo nguyên tắc giữa người đi vay và người cho vay.
Đây là hoạt động vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản của NHTM. Mục đích của cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, thông qua đó để tìm kiếm lợi nhuận.
+ Cho vay gồm: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ dự án.
+ Cho vay thương mại: Đây là hình thức ngân hàng cho vay đối với những người bán, sau đó chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với khác hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng hoạt động sản xuất.
+ Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn chính quan trọng giúp khách hàng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ… Bên cạnh đó những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng. Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất cho vay thương mại.
+ Cho vay dự án: Các ngân hàng tài trợ cho xây dựng những nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Nhưng hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro. Để đảm bảo an toàn trong hiệu quả và cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng thì các NHTM đã đưa ra các biện pháp đảm bảo trong cho vay, phòng ngừa rủi ro là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không bảo đảm bằng tài sản. Đây là điều kiện rang buộc đối với mỗi khách hàng khi đến vay vốn ngân hàng.
- Đầu tư: Ngân hàng thường đầu tư bằng cách nắm giữ chứng khoán và tham gia góp vốn với các tổ chức khác như: hùn vốn vào các ngân hàng liên doanh, các công ty... Nhưng chứng khoán mà ngân hàng nắm là chứng khoán Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng đem lại thu nhập cao và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Chứng khoán thường chia thành chứng khoán thanh khoản và kém thanh khoản. Chứng khoán có tính thanh khoản cao là chứng khoán an toàn, dễ bán, ít giảm giá nhưng có sinh lời thấp; còn chứng khoán kém thanh khoản thì có mức độ rủi ro cao nhưng đem lại tỷ lệ sinh lời cao. Ngân hàng nên nắm giữ hợp lý loại chứng khoán và đầu tư sao cho hiệu quả để vừa sinh lời vừa đảm bảo tính thanh khoản khi có lượng tiền mặt rút ra.
c. Các hoạt động khác:
- Mua bán ngoại tệ:
Đây là một trong những dịch vụ đầu tiên mà ngân hàng thực hiện, tức là mua một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện nay mua bán ngoại tệ thường là do các ngân hàng lớn nhất thực hiện. Bởi vì những giao dịch này có mức độ rủi ro cao, yêu cầu phải có trình độ chuyên môm cao.
- Bảo quản vật có giá:
Bên cạnh hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị khác cho khách hàng. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền gửi để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bắng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đây là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng.
- Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rut ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân vì tính an toàn , nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm chí phí. Điều này đã khuyễn khích các Doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Đây được coi là một bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng.
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ:
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường xuyên, chính phủ các nước đều muốn tiếp cận các khoản cho vay của ngân hàng. Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi các khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng trung ương thành lập, Chính Phủ đều tìm cách tham dự hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay Chính Phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng phải thực hiện theo chính sách của Chính Phủ và tài trợ cho Chính Phủ bằng cách mua trái phiếu Chính Phủ, hoặc cho vay ưu đãi các doanh nghiệp của chính phủ…
Ngoài ra, ngân hàng còn có các hoạt động khác: Quản lý ngân quỹ, cung cấp dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý.
2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
2.1. Khái niệm về DNVVN:
Nói đến DNVVN là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp, bởi vì khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một nước tại một thời điểm nhất định. Một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được xem là DNVVN nhưng trong môi trường kinh tế của quốc gia khác thì lại là doanh nghiệp lớn, hoặc doanh nghiệp cực nhỏ. Song, khái niệm chung nhất về DNVVN như sau: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được theo thời kỳ theo quy định của quốc gia.
Còn đối với DNVVN ở Việt Nam, Ngày 23/11/2001 Chính Phủ đã ban hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Theo quy định của nghị định này: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung bình hang năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên.
Theo khái niệm này, cũng như các nước khác, để phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn, Việt Nam quan tâm tới hai tiêu thức chính là vốn và lao động. Như vậy, vốn và lao động là hai tiêu thức cơ bản để đánh giá quy mô và phân loại doanh nghiệp. Tuy nhiên do đặc điểm của các ngành nghề khác nhau dẫn đến nhu cầu lao động , nhu cầu về vốn của mỗi doanh nghiệp rất khác nhau và tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
2.2 Đặc điểm của DNVVN:
DNVVN không chỉ mang nhũng đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp mà nó còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- Thứ nhất: DNVVN có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu hồi vốn nhanh.
Là loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nên việc đầu tư vốn sản suất không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản suất của các doanh nghiệp này thường vào các DNVVN sẽ tăng khả năng thu hồi vốn, tiếp tục tái cấp tín dụng để đầu tư vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo, đồng thời cũng tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn của ngân hang, tăng khả năng sinh lời. Đây được coi là một lợi thế dối với DNVVN so với doanh nghiệp lớn. Khi cho DNVVN vay với số lượng khách hang lớn hơn, ngân hang sẽ phân tán rủi ro hơn đối với cho vay doanh nghiệp lớn với cùng tổng dư nợ.
- Thứ hai: DNVVN hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, năng động, nhạy bén và dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường.
Với quy mô nhỏ, DNVVN có thể hoạt động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực, với giá cả hợp lý đáp ứng mọi nhu cầu sản xuất , tiêu dung dù là nhỏ nhất của mọi tầng lớp xã hội. Ngoài ra, với cơ sở vật chất không lớn, bộ máy qản lý gọn nhẹ nên DNVVN dễ dàng thay đổi ngành nghề, lĩnh vực sản phẩm dịch vụ kinh doanh khi có sự biến động trên thị trường. Nhờ vậy mà DNVVN phân tán được rủi ro, tiết kiệm chi phí trong hoạt động kinh doanh của mình, đảm bảo hiệu quả công việc. Đây là một mặt mạnh mà DNVVN có thể khai thác hết năng lực của mình, để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
- Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu, thủ công do quy mô vốn nhỏ. Số lượng DNVVN cả nước hiện nay khoảng 240000, chiếm khoảng 96% số doanh nghiệp trong cả nước, số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 41,8%, DN có 1-5 tỷ đồng tiền vốn chiếm 37,03%, DN co 5-10 tỷ đồng tiền vốn chiếm 8,18%, nên hầu hết nguồn tài chính của các DNVVN còn hạn hẹp. Mặt khác việc tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề đầu tiên co ý nghĩa quyết định thì các DNVVN còn gặp phải khó khăn không nhỏ, nhất là những khoản vay trung và dài hạn. Chính vì vậy, các DNVVN ít có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, thay thế công nghệ phù hợp, có hiệu quả. Thực tế cho thấy, hầu hết máy móc thiết bị đang dung trong các DNVVN ở Việt Nam là máy móc lạc hậu, đã khấu hao hết nhưng vẫn được tận dụng, sửa chữa để sử dụng. Trình độ công nghệ được đánh giá là lạc hậu so với các nước đang phát triển trong khu vực từ 2-3 thế hệ. Do vậy, sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, sức cạnh tranh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực. Để mở rộng sản xuất kinh doanh hay sửa chữa, mua sắm các trang thiết bị mới, DN cần có nguồn vốn mang tính chất ổn định và mang tính dài hạn. Hầu hết các doanh nghiệp được thành lập mới trong những năm gần đây, chưa xây dụng được hình ảnh riêng, chưa có uy tín nên việc vay vốn ngân hang còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy nguồn vốn và công nghệ còn hạn chế, thu nhập thấp. Các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và vay trên thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận với nguồn vay của ngân hang do không đảm bảo được các điều kiện cần thiết đặc biệt là tài sản đảm bảo.
- Thứ tư: Trình độ người quản lý còn yếu kém, tay nghề của người lao động chưa cao.Các doanh nghiệp được thành lập chủ yếu là các doanh nghiệp gia đình. Do vậy trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh thường theo thói quen làm việc và dựa vào mối quan hệ tray ỳ trông công việc, không có nguyên tắc làm việc,… kỹ năng chuyên môn. Hơn nữa quản lý theo thị trường hiện đại đang thiếu. Các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo, thiếu nhiều về hiểu biết quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Người lao động trong DNVVN có tay nghề kém, ít qua trường lớp đào tạo cơ bản, chủ yếu được chuyền nghề theo kiểu cha truyền con nối, lao động phổ thong, trình độ tay nghề đơn giản, chưa được đào tạo chiếm 60-70R lực lượng lao động trong các DNVVN. Người lao động chưa chưa được đào tạo tác phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại.
Bảng 1: Trình độ học vấn, đào tạo của lao động doanh nghiệp năm 1995.
(Đơn vị:%)
Bởi vậy, DNVVN muốn khắc phục những hạn chế này, bản than doanh nghiệp phải tự vận động kế hợp với hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ công nhân, thợ lành nghề kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi mới có thể vươn lên, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh, hôi nhập trong thời kỳ hội nhập kinh tế mới.
- Thứ năm: Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ là chủ yếu.
Các DNVVN thường nhận gia công chi tiết, phụ kiện… của sản phẩm cho xí nghiệp lớn hoặc tổ chức thu mua, thu gom nguyên liệu, phụ kiện làm đại lý bán hang. Đặc biệt mô hình DNVVN rất phù hợp với các làng nghề thủ công mỹ nghệ, những mạt hang truyền thống ở Việt Nam. Ở khu vực nông thôn hiện nay, phổ biến với mô hình DNVVN tận dụng nguyên vật liệu và lao động tại chỗ. Có tới 80% DNVVN hướng vào khai thác, chế biến nông sản thực phẩm, gỗ, dệt may, sản xuất gạch ngói, thuộc da, thủ công mỹ nghệ.
- Thứ 6: Mô hình tổ chức kinh doanh gọn nhẹ, quản lý đơn giản. Mô hình quản lý tổ chức trong các DNVVN thường đơn giản, mối quan hệ chủ - thợ trực tiếp, thậm chí chủ doanh nghiệp trực tiếp làm thợ. Quan hệ giữa lao động và người quản lý khá thân thiết. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân chia phòng ban, bộ phận rõ rang, thậm chí một người có thể đảm nhận nhiều vị trí. Điều kiện mặt bằng cho sản xuất kinh doanh của các DNVVN thường chật hẹp, nhiều doanh nghiệp còn dung nhà ở làm nơi sản xuất kinh doanh, giao dịch, giới thiệu sản phẩm bán hang. Chính điều này tạo sự năng động, linh hoạt trong sản xuất kinh doanh. Đây là điểm mạnh, lợi thế lớn