Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra và
nằm trong tay công chúng hay ngoài hệthống ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng nhất,
tiền mặt có thể được hiểu là những thứcó thểsửdụng trực tiếp đểthanh toán các giao
dịch và bao gồm cảtiền gửi ngân hàng. Nhưvậy, trong trường hợp này khái niệm tiền
mặt được dùng đểchỉdạng có khảnăng thanh toán cao nhất của tài sản, bao gồm các
đồng tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra và được công chúng giữ đểchi tiêu,
tiền gửi ởtài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳhạn, có thểrút ra bất cứ
lúc nào bằng cách viết séc.
Thanh toán, trong các mối quan hệkinh tế, được hiểu một cách khái quát nhất
là việc thực hiện chi trảbằng tiền giữa các bên trong những quan hệkinh tếnhất định.
Tiền ở đây được hiểu là bất cứcái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để
nhận hàng hóa hoặc dịch vụhoặc trong việc trảnợ.
Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là tổng hợp mọi quan hệchi trảtiền
tệ được thực hiện bằng cách trích chuyển một sốtiền từtài khoản của người trảsang
tài khoản của người nhận được mởtại ngân hàng, dưới sựkiểm soát tác nghiệp của hệ
thống các ngân hàng.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2014 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 . Khái niệm và đặc điểm và ý nghĩa của hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt.
1.1.1 . Khái niệm
Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra và
nằm trong tay công chúng hay ngoài hệ thống ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng nhất,
tiền mặt có thể được hiểu là những thứ có thể sử dụng trực tiếp để thanh toán các giao
dịch và bao gồm cả tiền gửi ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp này khái niệm tiền
mặt được dùng để chỉ dạng có khả năng thanh toán cao nhất của tài sản, bao gồm các
đồng tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra và được công chúng giữ để chi tiêu,
tiền gửi ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có thể rút ra bất cứ
lúc nào bằng cách viết séc.
Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái quát nhất
là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế nhất định.
Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để
nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là tổng hợp mọi quan hệ chi trả tiền
tệ được thực hiện bằng cách trích chuyển một số tiền từ tài khoản của người trả sang
tài khoản của người nhận được mở tại ngân hàng, dưới sự kiểm soát tác nghiệp của hệ
thống các ngân hàng.
1.1.2 Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt.
Sự ra đời của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt gắn liền với sự ra đời của
đồng tiền ghi sổ và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát t riển của hệ thống ngân
hàng. Sự tồn tại và lớn mạnh của hệ thống này đã tạo điều kiện cho cá nhân và các tổ
chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện việc thanh toán thông
2
qua việc chuyển khoản trong hệ thống ngân hàng. thanh toán không dùng tiền mặt là
một hình thức vận động tiền tệ mà ở đây tiền vừa là công cụ để kế toán, vừa là công
cụ để chuyển hóa hình thức giá trị của hàng hóa và dịch vụ. Nó có một số đặc điểm
sau:
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt sự vận động của tiền tệ độc lập với sự
vận động của hàng hóa cả về thời gian lẫn không gian và thường không có sự ăn khớp
nhau. Đây là đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất của hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, vật trung gian trao đổi không xuất hiện
như trong hình thức thanh toán dùng tiền mặt theo kiểu H-T-H mà chỉ xuất hiện dưới
dạng tiền kế toán hay tiền ghi sổ và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách kế toán.
đây là đặc điểm riêng của thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng vừa là người tổ chức vừa là
người thực hiện các khoản thanh toán. Chỉ có ngân hàng, người quản lý tài khoản tiền
gửi của các khách hàng mới được quyền trích chuyển những tài khoản này theo các
nguyên tắc chuyên môn đặc thù như là một nghiệp vụ riêng của mình. Với nghiệp vụ
này, ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán đối với các khách hàng của mình.
Với những đặc điểm nêu trên, thanh toán không dùng tiền mặt nếu được tổ
chức và thực hiện tốt sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong tương lai,
theo đà phát triển của xã hội và theo nhu cầu của thị trường, thanh toán không dùng
tiền mặt sẽ giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc lưu chuyển tiền tệ và trong
thanh toán giá trị của nền kinh tế.
1.1.3 Nguyên tắc thanh toán không dùng tiền mặt ( thanh toán qua ngân hàng )
Muốn thanh toán qua ngân hàng, khách hàng phải chấp hành đúng quy định của
ngân hàng nhà nước về thanh toán qua ngân hàng cũng như những hướng dẫn cụ thể
của từng ngân hàng. Dù là khách hảng của ngân hàng nào khi muốn thanh toán qua
ngân hàng cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắt sau:
Phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, trên tài khoản phải có số dư để đáp ứng
nhu cầu thanh toán. Chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt quá số dư
3
trên tài khoản và chịu phạt theo tỷ lệ TTKDTM (trừ trường hợp đã có thỏa thuận thấu
chi với ngân hàng ), chịu trách nhiệm trên những sai sót, lợi dụng trên những giấy tờ
thanh toán của những người được chủ tài khoản ủy quyền ký thay.
Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, chủ tài khoản phải chấp hành những quy
định và hướng dẫn của ngân hàng về việc lập những giấy tờ thanh toán, phương thức
nộp, lĩnh tiền ở ngân hàng . trên các giấy tờ thanh toán duấ và chữ ký phải đúng mẫu
đã đăng ký tại ngân hàng.
Chủ tài khoản phải tự theo dõi tài số dư tiền gửi tại ngân hàng, nếu số liệu của ngân
hàng và sổ sách của mình có sự chênh lệch thì phải báo nbgay cho ngân hàng biết để
cùng nhau đối chiếu, điều chỉnh số liệu cho khớp đúng.
Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ thanh toán của khách hàng, số dư
trên tài khoản và chi trả kịp thời theo yêu cầu của khách hàng, mọi sai sót do chủ quan
của ngân hàng làm thiệt hại đến khách hàng đều phải bồi thường theo quy định.
1.1.4 Ý nghĩa của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt :
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến bộ
nhất nó tạo ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại những lợi
ích kinh tế to lớn. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển trên cơ sở của
nền kinh tế thị trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển, do đó nó vừa được coi là “đứa con” sinh ra của kinh tế thị
trường lại được xem như “bà đỡ” của nền kinh tế hàng hoá, nó góp phần đẩy nhanh
tốc độ quá trình tái sản xuất xã hội, nó là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc của quá
trình sản xuất, nó liên quan đến toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá, tiền tệ của
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.
- Đối với khách hàng:
Khi giao dịch với ngân hàng để thanh toán họ phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân
hàng. Tiền này có thể sử dụng bất cứ lúc nào và nó có tính thanh khoản gần như
100%. Quá trình thanh toán này nhanh hơn tiền mặt và giảm được rất nhiều chi phí
liên quan đến quá trình vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt mà họ phải chịu. Giảm thiểu
các rủi ro như trộm cắp, hỏa hoạn.
4
Ngoài ra khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng và duy trì số tiền gửi , họ
còn được hưởng những lợi ích khác như được trả lãi, được cung cấp dịch vụ ngân
hàng với nhiều ưu đãi…
- Đối với ngân hàng:
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng tập chung tăng
cường ngồn vốn để đầu tư đúng chỗ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế. Qua hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tập trung được khoản thanh toán của khách
hàng mở tài khoản ở các Ngân hàng, muốn thanh toán được thì trên tài khoản phải có
số dư, điều này đã tạo ra một nguồn vốn nhàn rỗi và tập trung vào ngân hàn. Càng
nhiều khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán này thì số vốn càng lớn và bằng
kênh tín dụng riêng của mình ngân hàng có thể đầu tư khi nền kinh tế kêu gọi vốn phát
triển.
- Đối với nền kinh tế:
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm soát lạm
phát. Thông qua việc khống chế tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tái chiết khấu... ngân hàng
Trung ương gián tiếp điều hoà khối lượng tiền tệ cung ứng góp phần bảo đảm cho nền
kinh tế ở một mức độ ổn định. Căn cứ vào việc thanh toán luân chuyển tiền tệ mà
hoạch định các chính sách cần thiết. Với ý nghĩa to lớn đó, ở những quốc gia có nền
kinh tế phát triển người dân sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt như là một thói
quen văn hoá không thể thiếu được.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện giúp Ngân hàng trung ương dự
đoán và kiểm soát đồng tiền đối với nền kinh tế để sử dụng và phát huy các đòn bẩy
kinh tế như lãi suất, tỷ trọng tín dụng trung dài hạn, tỷ giá hối đoái… mà không cần
phải dùng tới các mệnh lệnh hành chính để kiểm soát và định hướng nền kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm khối
lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội có
liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. Trước hết đó là tiết kiệm chi phí in
tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm, chuyên chở, bảo quản và huỷ bỏ tiền
cũ, rách mà vấn đề bức xúc nhất hiện nay đó là việc chuyên chở và bảo quản tiền mặt.
5
1.2 – Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt :
1.2.1 Séc :
Séc là môt tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu đã quy định sẵn,
yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho
người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế
giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Công ước quốc tế. Séc được sử
dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ… hoặc được dùng để rút tiền
mặt tại các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng
đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc, tùy theo quy
định trước, thường là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người
thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ).
1.2.2 Ủy nhiệm chi ( UNC ) :
Trong các phương tiện thanh toán không dùng tiền măt hiện nay tại Việt Nam, có
thể nói UNC là phương tiện thanh toán được sử dụng phổ biến nhất vì đơn giản về thủ
tục, có phạm vi thanh toán rộng. khi có nhu cầu thanh toán chủ tài khoản ( công ty
hoặc cá nhân) lập lệnh theo mẫu của ngân hàng- nơi quản lý tài khoản và gửi tới ngân
hàng. Ngay khi nhận được lệnh, ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của
UNC, số dư tài khoản và sẽ thực hiện trong thời gian không quá một ngày làm việc kể
từ thời điểm nhận được lệnh chi hay UNC do khách hàng gửi đến.
Bên cạnh những ưu điểm thì UNC vẫn còn co thể gây thiệt hại cho bên bán một khi
bên mua thiếu thiện chí thanh toán, bên mau có thể lập UNC đưa đến cho ngân hàng
nhưng sau đó lại yêu cầu hủy ngay, khi mà ngân hàng chưa kịp xử lý lệnh và cũng có
thể gây thiệt hại cho bên mua trong trường hợp đã thanh toán tiền nhưng chất lượng
hàng nhận không như mong đợi. trong các trường hợp này ngân hàng chỉ cung cấp
dịch vụ theo đúng nghĩa của nó.
6
1.2.3 Ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu ( UNT ) :
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi giao hàng và
cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu
hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Khi áp dụng phương thức thanh toán này các bên liên quan sẽ tuân theo qui tắc
thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại URC (Uniform Rule for Collection) do
phòng thương mại quốc tế ICC phát hành năm 1995.Theo URC 522 để tiến hành
phương thức thanh tóan nhờ thu bên bán phải lập chỉ thị nhờ thu ( Collection
Instruction) gửi cho ngân hàng uỷ thác. Các ngân hàng tham gia nghiệp vụ nhờ thu chỉ
được thực hiện theo đúng chỉ thị, với nội dung phù hợp qui định URC được dẫn chiếu.
Chỉ thị nhờ thu là văn bản pháp ly điều chỉnh quan hệ giữa Ngân hàng với bên nhờ thu
Các bên tham gia phương thức thanh toán:
- Người xuất khẩu (người uỷ nhiệm thu / Người hưởng lợi )
- Ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu :là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
- Ngân hàng đại lý (ngân hàng thu tiền):là ngân hàng phục vụ bên mua
- Người nhập khẩu(người trả tiền / Bên mua)
1.2.4 Thư tín dụng(TTD):
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong
điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị
hàng hoá mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai ngân hàng
khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi ngân
hàng bên bán đóng trụ sở phải có ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở TTD và
tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh
toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ
ngày ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10 triệu
đồng.
7
1.2.5 Thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho
khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay
lĩnh tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.
Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài
khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền
gửi của chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do ngân hàng
phát hành thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện
tử hoặc được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ. Loại thẻ này áp dụng cho những
khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán(thẻ loại B) : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ,
khách hàng phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán
thẻ" thông qua việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ
và được ghi vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
- Thẻ tín dụng (thẻ loại C): áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện
được ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn
mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền
trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận.
1.2.6 Dịch vụ ngân hàng điện tử :
Về nguyên tắc, thực chất của dịch vụ Ngân hàng điện tử là việc thiết lập một kênh
trao đổi thông tin tài chính giữa khách hàng và Ngân hàng nhằm phụcvụ nhu cầu sử
dụng dịch vụ Ngân hàng của khách hàng một cách thực sự nhanhchóng, an toàn và
thuận tiện. Hiện nay dịch vụ Ngân hàng được các Ngân hàng thương mại Việt Nam
cung cấp qua các kênh chính sau đây: Ngân hàng trên mạng Internet (Internet-
banking), Ngân hàng tại nhà (Home-banking), Ngân hàng tự động qua điện thoại
(Phonebanking);Ngân hàng qua mạng thông tin di động (Mobile-banking)…
8
Ngân hàng trên mạng Internet (Internet-banking)
Internet-banking là dịch vụ cung cấp tự động các thông tin sản phẩm và dịch vụ
NH thông qua đường truyền Internet. Đây là một kênh phân phối rộng các sản phẩm
và dịch vụ NH tới khách hàng ở bất cứ nơi đâu và bất cứ thời gian nào. Với máy tính
kết nối Internet, khách hàng có thể truy cập vào website của NH để được cung cấp các
thông tin, hướng dẫn đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng.
Các dịch vụ Internet-banking cung cấp:xem số dư tài khoản tại thời điểm hiện tại,
vấn tin lịch sử giao dịch; xem thông tin tỷ giá; lãi suất tiền gửi tiết kiệm; thanh toán
hóa đơn điện, nước, điện thoại; khách hàng có thể gửi tất cả các thắc mắc, góp ý về sản
phẩm, dịch vụ của Ngân hàng và được giải quyết nhanh chóng.
Ngân hàng tại nhà (Home-banking):
Ứng dụng và phát triển Home-banking là một bước phát triển chiến lược của các
NHTM Việt Nam trước sức ép rất lớn của tiến trình hội nhập toàn cầu về dịch vụ NH.
Đứng về phía khách hàng, Home-banking đã mang lại những lợi ích thiết thực như tiết
kiệm chi phí, thời gian. Và khẩu hiệu “Dịch vụ Ngân hàng 24 giờ mỗi ngày, bảy ngày
mỗi tuần” chính là ưu thế lớn nhất mà mô hình Ngân hàng “hành chính” truyền thống
không thể nào sánh được.
Ngân hàng qua điện thoại (Phone-banking):
Phone-banking được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và phần mềm quản lý đặt
tại NH, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài của dịch vụ. Thông qua các phím
chức năng được khái niệm trước, khách hàng sẽ được phục vụ một cách tự động hoặc
thông qua nhân viên tổng đài. Khi đăng ký sử dụng dịch vụ Phone-banking, khách
hàng sẽ được cung cấp một mã khách hàng, hoặc mã tài khoản, tùy theo dịch vụ đăng
ký, khách hàng có thể sử dụng nhiều dịch vụ khác nhau.
Ngân hàng qua mạng di động (Mobile-banking):
Cùng với sự phát triển của mạng thông tin di động, các NHTM Việt Nam cũng đã
nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới này vào các dịch vụ NH. Về nguyên tắc,
thông tin bảo mật được mã hóa và trao đổi giữa trung tâm xử lý của NH và thiết bị di
động của khách hàng (điện thoại di động, Pocket PC, Palm…).
9
1.3 Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.3.1 Thanh toán bù trừ
Thanh toán bù trừ là thanh toán vốn giữa các tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước
khác hệ thống nhưng cùng địa bàn thông qua tài khoản tại ngân hàng Nhà nước d đơn
vị ngân hàng Nhà nước đứng ra tổ chức và chủ trì thanh toán bù trừ.
1.3.2 Thanh toán điện tử liên ngân hàng
Thanh toán điện tử liên ngân hàng là phương thức thanh toán điện tử sử dụng mạng
thanh toán CITAD do sở giao dịch NHNN Việt Nam làm chủ trì và các NHTM làm
thành viên. Thanh toán điện tử liên ngân hàng có hai hình thức là thanh toán điện tử
giá trị cao ( số tiền thanh toán từ 500 triệu trở lên ) và giá trị thấp ( số tiền thanh toán
dưới 500 triệu ).
1.3.3 Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác
Hình thức này áp dụng đối với các ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống nhưng cùng
địa bàn và có quan hệ giao dịch thanh toán thường xuyên với nhau. Một ngân hàng có
tài khoản tiền gửi ở nhiều ngân hàng khác sẽ tạo điều kiện chuyển tiền thuận lợi và
nhanh chóng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Tiền mặt đã xuất hiện từ lâu và là phương thức thanh toán không thể thiếu ở bất cứ
quốc gia nào. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, có rất nhiều phương thức
thanh toán nhanh chóng, tiện dụng và hiện đại hơn nhiều ra đời và được gọi chung là
phương thức TTKDTM. Chương 1 đã đề cập đến các phương tiện được sử dụng khi
thực hiện TTKDTM làm cơ sở để phân tích tình trạng của việc sử dụng cũng như đưa
ra các giải pháp trong các chương sau
10
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI
VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn hiện nay. Những thuận lợi, khó
khăn đối với công tác phát triển , mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt .
2.1.1 Thuận lợi
Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, nền Việt Nam đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và
tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là hai trong số những thành tựu mà
Việt Nam đạt được qua 20 năm đổi mới. Với nền kinh tế ngày càng phát triển với
nhiều thành phần kinh tế, cùng với sự đi lên của nền kinh tế, việc xây dựng một hệ
thống thanh toán tiện lợi và hiện đại sẽ càng thúc đẩy cho sự đi lên của nến kinh tế.
2.1.2 Khó khăn
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, bao cấp,
tập trung sang nền kinh tế thị trường; thanh toán trong dân cư với nhau phổ biến là
bằng tiền mặt, mọi sự tiếp cận với phương tiện thanh toán mới, công nghệ thanh toán
mới đang ở mức ban đầu cả về tổ chức và thực hiện. Mặt khác thu nhập của dân nói
chung còn ở mức thấp; nhu cầu thiết yếu dân vẫn mua ở chợ “tự do” là chủ yếu; thêm
vào đó thói quen sử dụng tiền mặt, đơn giản, thuận tiện bao đời nay không dễ một
sớm, một chiều thay đổi nhanh được; đồng thời muốn sử dụng phương tiện thanh toán
hiện đại lại cũng cần có sự hiểu biết nhất định. Cơ chế, chính sách, môi trường và tổ
chức quản lý thanh toán hiện đại trong điều kiện nền kinh tế ở Việt Nam, trước sự
bùng nổ và phát triển thương mại điện tử, công nghệ thông tin trên thế giới, thì còn
khá nhiều bất cập, nhiều điều phải bàn và làm.
11
2.2. Tình hình chung về hệ thống ngân hàng Việt Nam
Về tổ chức bộ máy: ngân hàng Việt Nam đã được thiết lập thành một mạng lưới
cung cấp dịch vụ ngân hàng phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Tính đến
năm 2008, hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam bao gồm:
+ 5 NHTM nhà nước
+ 1