Nghị Quyết Hội Nghị Trung Ương lần thứ 6 khóa VIII của ĐCSVN khẳng định: “Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH – HĐH có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước theo định hướng XHCN”, thực tế cũng cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong sự nghiệp đổi mới, HĐH đất nước bởi đây là mặt trận hàng đầu có nền tảng cơ sở phát triển.
63 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp trên địa bàn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nghị Quyết Hội Nghị Trung Ương lần thứ 6 khóa VIII của ĐCSVN khẳng định: “Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH – HĐH có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước theo định hướng XHCN”, thực tế cũng cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong sự nghiệp đổi mới, HĐH đất nước bởi đây là mặt trận hàng đầu có nền tảng cơ sở phát triển.
Hơn 20 năm sau đổi mới nước ta đã đạt được nhiều thành quả to lớn làm thay đổi diện mạo, làm tăng vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có nhiều khởi sắc bước đầu khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế, nhưng nhìn chung thì tốc độ phát triển còn khá thấp nhất là so với các nước tư bản, các nước phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng của một ngành trọng điểm.
Là một huyện của vùng đồng bằng sông Hồng, lại là một huyện của một tỉnh nông nghiệp (tỉnh Hưng Yên), Văn Giang có nhiều tiềm năng và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi song trình độ phát triển kinh tế lại đang ở mức thấp, tỷ lệ thuần nông lớn, lao động dư thừa, đời sống nhân nhân còn nhiều khó khăn. Vấn đề lớn đặt ra là tìm ra hướng đi nào cho sự phát triển đi lên của nông nghiệp – nông thôn huyện, một trong những giải pháp đem lại hiệu quả cao nhất đang được các cấp, các ngành hết sức chú trọng và được triển khai thực hiện ở hầu khắp các địa phương trên toàn quốc đó là: Tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp – nông thôn.
Vì những lý do trên nên em quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng cho phát triển nông nghiệp trên địa bàn của NHNo&PTNT huyện Văn Giang”. Do thời gian nghiên cứu có hạn, trình độ còn hạn chế, khả năng nắm bắt tình hình thực tế cũng như suy luận vấn đề chưa sâu nên bài viết của em còn nhiều thiếu xót rất mong thầy cô đóng góp bổ sung ý kiến giúp em hoàn thành đề tài tốt hơn.
1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng về tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển nông nghiệp – nông thôn, từ đó tìm ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng cho quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Văn Giang.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tín dụng ngân hàng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn huyện Văn Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu trong phạm vi tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Giang cho quá trình phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Giang.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp khảo sát thực tế để nghiên cứu, từ đó có những kết luận, kiến nghị đề xuất với NHNo & PTNT huyện Văn Giang những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay để phát triển nông nghiệp huyện.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng đối với phát triển nông nghiệp – nông thôn.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng ngân hàng đối với quá trình phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Giang
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm góp phần phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Văn Giang.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
1.1 Khái quát về nông nghiệp – nông thôn
a) Khái niệm về nông nghiệp – nông thôn
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm,… để thỏa mãn các nhu cầu của mình
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm, ngư nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như: đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa,… các điều kiện tự nhiên này có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Nông nghiệp còn là ngành có năng suất lao động thấp, việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ gặp nhiều khó khăn.
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn.
b) Vai trò của nông nghiệp – nông thôn:
Nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một nước, đặc biệt là với một nước đi lên từ nông nghiệp như nước ta, thể hiện:
Nông nghiệp cung cấp lương thực – thực phẩm cho xã hội:
Ăn là nhu cầu cơ bản nhất của con người, giúp con người sống tồn tại, duy trì và phát triển, thỏa mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành điều quan trọng tất yếu để ổn định xã hội, ổn định kinh tế. Sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc thỏa mãn nhu cầu này.
Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu đầu vào cho phát triển một số ngành công nghiệp nhẹ:
Các ngành công nghiệp nhẹ như: chế biến lương thực, thực phẩm, chế biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường,... phải dựa vào nguồn nguyên liệu đầu vào chủ yếu từ nông nghiệp. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp này.
Nông nghiệp cung cấp một phần vốn để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa:
Công nghiệp hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình công nghiệp hóa chúng ta cần giải quyết rất nhiều vấn đề phải có vốn, nước ta là một nước nông nghiệp xuất khẩu nông sản phẩm, vì vậy nông nghiệp – nông thôn góp phần giải quyết một phần không nhỏ nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Nông nghiệp – nông thôn là thị trường quan trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ
Ở những nước lạc hậu, nông nghiệp – nông thôn tập trung phần lớn lao động và dân cư, vì thế đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ trong nước. Nông nghiệp – nông thôn càng phát triển một mặt làm cho nhu cầu về hàng hóa tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu…) tăng lên, kèm theo là những dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp (vốn, thông tin tư vấn, giao thông vận tải, …) cũng ngày càng tăng; mặt khác làm cho đời sốn, mức thu nhập của người dân tăng lên đòi hỏi được đáp ứng nhu cầu về những sản phẩm công nghiệp phục vụ cuộc sống (tivi, tủ lạnh, xe máy…) các dịch vụ văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao,…cũng ngày càng tăng.
Phát triển nông nghiệp – nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội:
Phát triển nông nghiệp một mặt đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội; nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ; thị trường của công nghiêp – dịch vụ…đây chính là cơ sở để ổn định, phát triển nền kinh tế. Mặt khác phát triển nông nghiệp trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cư dân nông thôn, do đó nó là cơ sở ổn định chính trị, xã hội.
Hiện nay nông nghiệp nước ta còn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, là ngành có tỷ trọng lớn về lực lượng lao động, do đó kinh tế nông nghiệp đã, đang và sẽ còn là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
1.2 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
a) Khái niệm tín dụng ngân hàng
Theo các nhà kinh tế học hiện đại: Tín dụng là trên cơ sở lòng tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn theo thỏa bên giữa 2 bên.
Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn giữa người có vốn nhàn rỗi và người thiều vốn (người có nhu cầu về vốn).
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân trong xã hội, trong đó Ngân hàng giữ vai trò tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và các tầng lớp dân cư để cho vay.
Quá trình tập trung và sử dụng nguồn vốn cho vay có quan hệ chặt chẽ với nhau giải quyết tốt mối quan hệ này có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì và phát triển của ngân hàng.
b) Chức năng của tín dụng ngân hàng
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trong xã hội theo nguyên tắc hoàn trả và dưới hình thức cho vay:
Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư để cho vay của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Là người cho vay ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay của mọi đối tượng khách hàng khi có nhu cầu thiếu vốn cần bổ sung cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Do đó ngân hàng thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đâp ứng yêu cấu tái sản xuất của xã hội.
Tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông:
Huy động vốn vào ngân hàng và các tổ chức tin dụng giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông. Mặt khác hoạt động cho vay chủ yếu tiền bút tệ và thanh toán không dùng tiền mặt rút bớt tiền mặt trong lưu thông cùng những chi phí lưu thông tiền mặt.
Kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Ngân hàng và tổ chức tín dụng luôn theo sát và phản ánh một cách chính xác, kịp thời tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng vay, các hoạt động kinh tế của các ngành nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật,…
1.3 Các hình thức tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng No&PTNT nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại và chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN Việt Nam, vì vậy cũng giống như mọi ngân hàng thương mại khác, NHNo&PTNT cũng có các hình thức tín dụng chủ yếu sau:
1.3.1. Căn cứ theo thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, đáp ứng cho đối tượng có chu kỳ sản xuất ngắn, dịch vụ thương mại, áp dụng cho tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Đối với cho vay ngắn hạn khách hàng phải có tối thiếu 20% vốn tự có trong tổng nhu cầu vốn vay ngân hàng. Loại cho vay này chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngân hàng (thường chiếm trên 60% trong cơ cấu cho vay).
Tín dụng trung hạn: cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, tài trợ để mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất mới các chương trình vừa và nhỏ.
Tín dụng dài hạn: cho vay có thời hạn thông thường từ 3 năm đến 5 năm và có thể lâu hơn, chủ yếu đầu tư xây dựng nhà ở, thiết bị sản xuất, xây dựng các xí nghiệp mới các công trình thuộc cơ sở hạ tầng.
Đối với vốn trung hạn và dài hạn, khách hàng vay phải có vốn tự có tối thiểu 30% trong tổng nhu cầu vốn vay ngân hàng.
1.3.2 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo tiêu thức này tín dụng được chia làm 2 loại
Tín dụng không có đảm bảo: việc cho vay không yêu cầu phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba mà chỉ dựa vào sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng (uy tín của khách hàng), sử dụng cho khách hàng quen thuộc có khả năng tài chính mạnh.
Tín dụng có đảm bảo: Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải có các khoản đảm bảo tài sản vật chất như bất động sản, động sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
1.3.3 Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng
Tín dụng trực tiếp: là phương thức cho vay mà ngân hàng trực tiếp cho người đi vay vay vốn đồng thời người vay trực tiếp trả nợ (gốc và lãi) cho ngân hàng.
Tín dụng gián tiếp: là phương thức cho vay mà ngân hàng thông qua các tổ chức trung gian để chuyển vốn vay đến người vay, hoặc thông qua việc mua lại các khế ước nợ, các chứng chỉ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán (trong thực tế gọi là tín dụng chiết khấu).
Ngoài ra còn có một số hình thức tín dụng khác như:
Tín dụng cầm cố: cho vay bằng cách người đi vay mang đồ vật có giá trị (vàng, bạc, máy móc thiết bị….), các giấy tờ có giá (thẻ tiết kiệm, kỳ phiếu…) để được vay theo một tỷ lệ nhất định, giá trị vật cầm cố định lượng theo giá cả thị trường (thường 70-80%) thời hạn cho vay.
Tín dụng tiêu dùng: áp dụng đối với những khách hàng vay có thu nhập đều đặn (cán bộ, công nhân viên chức) hàng tháng. Ngân hàng cho vay tạo lập vốn ban đầu mua sắm sửa chữa nhà cửa hoặc những tài sản phục vụ đời sống cũng như phương tiện đi lại. Người vay trích một phần thu nhập để trả nợ.
- ….
1.4. Phương pháp cho vay của ngân hàng
1- Cho vay từng lần: Áp dụng cho những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, đối tượng chủ yếu là các hộ sản xuất trong nông nghiệp có nhu cầu vốn không quá lớn dao động từ 10 triệu đồng đến 60 triệu đồng.
Số tiền vay của ngân hàng được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của ngân hàng, giới hạn cho vay theo quy định của Pháp luật và của ngân hàng.
Nhu cầu vay
=
Nhu cầu vốn lưu động
-
Vốn chủ sở hữu và vốn huy động khác
2- Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương pháp cho vay mà khách hàng và ngân hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa với tài sản bảo đảm, khả năng nguồn vốn của ngân hàng để thanh toán và thỏa thuận một hạn mức tín dụng theo thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vốn vay – trả nợ thường xuyên, có đặc điểm sản xuất kinh doanh luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần, có uy tín đối với ngân hàng. Đối tượng chủ yếu là các hộ sản xuất kinh doanh các mặt hàng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống.
Nhu cầu vay lớn nhất
=
Chi phí cần thiết
X
Vốn chủ sở hữu
-
Vốn huy động
Vòng quay vốn lưu động
1.5 Chất lượng tín dụng và các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng.
1.5.1 - Quan niệm về chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, với nhu cầu vay vốn của người vay và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Từ quan niệm trên có thể thấy chất lượng tín dụng được thể hiện qua ba nhân tố:
Đối với khách hàng: việc cho vay phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn vay của khách hàng theo đúng mục đích sử dụng, thủ tục vay đơn giản dễ hiểu và đảm bảo nguyên tắc cho vay giúp khách hàng bổ sung vốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả.
Đối với ngân hàng: chất lượng tín dụng thể hiện ở thời hạn tín dụng, quy mô, lãi suất phù hợp với nguồn vốn huy động và tiềm lực của ngân hàng. Chất lượng cho vay đạt được nghĩa là khoản vay được hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn, giảm thiểu rủi ro mất vốn của ngân hàng.
Đối với phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh tổng quát nhất hoạt động tín dụng của ngân hàng. Để đạt được chất lượng tín dụng tốt cần có sự quản lý. Quản lý tín dụng gắn liền với quy trình tín dụng bao gồm một chuỗi các hoạt động từ khâu thẩm định xét duyệt hồ sơ cho vay cho đến khâu cuối cùng thu nợ thanh lý hợp đồng tín dụng, qua đó đánh giá khách hàng vay để có thông tin cho lần vay tiếp theo nếu khách hàng có nhu cầu. Vì vậy có thể đánh giá tín dụng qua hệ thống các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng. Để chất lượng tín dụng được đảm bảo trước tiên đòi hỏi ở mỗi thành viên trong tổ chức ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quá trình quản lý chất lượng, hiểu đúng bản chất sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp vừa đảm bảo khả năng sinh lời vừa đảm bảo an toàn của đồng vốn cho vay.
1.5.2 - Chỉ tiêu phản ánh chât lượng tín dụng ngân hàng
Chất lượng tín dụng thể hiện sự thỏa mãn nhu cầu về vốn của khách hàng, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển và bảo đảm hoạt động của ngân hàng ở cả 2 khía cạnh là khả năng sinh lời và giảm thiểu rủi ro về sử dụng vốn. Cho đến nay vẫn chưa có một hệ thống chỉ tiêu mang tính chuẩn mực nào được đưa ra để đánh giá chất lượng tín dụng, do vậy em chỉ đưa ra một vài chỉ tiêu thông dụng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong công tác đánh giá:
a) Các chỉ tiêu định lượng
Là những chỉ tiêu có thể đo lường xác định được. Chỉ tiêu này thường được xác định sau khi cho vay, đánh giá kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng, bao gồm: Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ cho vay, tỷ lệ nợ xấu/ Tổng dư nợ, hệ số sử dụng vốn cho vay, thu nhập từ hoạt động cho vay, dự phòng rủi ro/ tổng dư nợ. Trong đó:
Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà ngân hàng cho vay trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Con số và tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng hoạt động cho vay của ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp
Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi trong một thời kỳ nhất định, phản ánh hiệu quả nguồn vốn ngân hàng đã đầu tư cho vay.
Dư nợ cho vay phản ánh lượng vốn mà các khách hàng vay còn nợ lại ngân hàng, phản ánh quy mô cho vay của ngân hàng. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp, ngân hàng không mở rộng được hoạt động tín dụng. và ngược lại.
Nói chung doanh số cho vay lớn, khả năng thu hồi nợ tốt, khách hàng trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cả thì chất lượng cho vay là tốt.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu: Nợ xấu là các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến kỳ hạn.
Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ: là tỷ lệ % giữa số dư nợ xấu và tổng dư nợ,
Tỷ lệ nợ xấu
=
Số dư nợ xấu
X
100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu cao mức độ rủi ro tín dụng lớn gây nguy hiểm cho hoạt động của ngân hàng, lúc này chất lượng tín dụng được đánh giá thấp và ngược lại.
Hiện nay tỷ lệ nợ xấu đang trở thành tiêu thức chủ yếu đánh giá chất lượng tín dụng.
Thu nhập hoạt động cho vay
Thu lãi cho vay / tổng doanh thu là chỉ tiêu để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Chỉ tiêu này càng cao, hoạt động tín dụng càng đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại.
b) Các chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính không đo lường được, không lượng hóa được mà chỉ mang tính chất tương đối về chất lượng cho vay của ngân hàng. Chỉ tiêu định tính thể hiện ở việc đảm bảo tính tuân thủ trong hoạt động tín dụng, ở chất lượng cán bộ tín dụng, ở sự hài lòng của khách hàng đối với các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
Tính tuân thủ trong hoạt động tín dụng: là việc chấp hành tốt các quy định về đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời của đồng vốn cho vay, thực hiện đầy đủ các quy định của Pháp luật, của ngân hàng có liên quan đến hoạt động tín dụng. Có như vậy hoạt động tín dụng mới nâng cao được cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống các quy định, quy chế là cơ sở để cán bộ tín dụng thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình.
Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng: Hoạt động cho vay là hoạt động chụi nhiều rủi ro vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu công việc đồng thời năng lực quản lý điều hành của bộ máy lãnh đạo cúng có tấc động quyết định đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ của ngân hàng được thể hiện ở sự hợp lý về lãi suất huy động và lãi suất cho vay, ở sự đáp ứng yêu cầu đo dạng của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng với thời gian nhanh nhất, thủ tục thuận tiện nhất, thái độ phục vụ tận tình chu đáo,…tất cả đều nhằm tạo dựng củng cố lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Chất lượng tín dụng còn thể hiện ở chỉ tiêu tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và lợi ích của người lao động từ những dự án vay vốn sản xuất, kinh doanh của ngân hàng.
Tất cả các chỉ tiêu trên dù là định tính hay định lượng và tùy trong từng điều kiện kinh tê – xã hội nhất định sẽ có những đánh giá khác nhau, đánh giá chất lượng tín dụng tạo điều kiện cải tiến và hoàn thiện các sản phẩm tín dụng ngân hàng đáp ứng yêu cầu phát triển