Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, đất nước chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong hoạt động của mình, góp phần tích cực vào việc kìm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, hoạt động của ngành vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những mặt được, ngành ngân hàng Việt Nam còn có những tồn tại. Một trong những tồn tại chủ yếu là số nợ khê đọng, nợ khó đòi còn lớn, làm suy giảm năng lực của hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng tới sự ổn định của hệ thống ngân hàng cũng như ổn định kinh tế. Chính vì vậy để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ của ngành, ngay từ đầu năm ngân hàng Nhà nước cũng như các TCTD đã có biện pháp để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, trên cơ sở an toàn và hiệu quả; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức đầu tư để tạo sự chu chuyển vốn thông suốt, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn của các TCTD trong năm vừa qua. Trong năm tới đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng TMCP Quân Đội nói riêng đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối quan tâm không chỉ đối với giới quản lý và điều hành của hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội bởi vì đây là tín hiệu tổng hợp, vừa phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý hoạt động ngân hàng nói riêng, vừa phản ánh sự lớn mạnh và những mặt còn bất cập trong quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng.
Qua quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân Đội em nhận thấy mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng quân đội chính là một mục tiêu được các cổ đông, hội đồng quản trị cũng như ban lãnh đạo ngân hàng luôn quan tâm và đặt ra trong chương trình chiến lược của ngân hàng Quân Đội từ năm 2004 đến năm 2008. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NH TMCP Quân Đội” cho bản chuyên đề của mình với mong muốn góp phần làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng Quân Đội ngày càng có hiệu quả, an toàn, phát triển.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Mùi cùng các anh chị tại ngân hàng Quân Đội đã giúp em hoàn thành đề tài này. Bài chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng của NH TMCP Quân Đội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHQĐ
55 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua, đất nước chúng ta đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như nhà đầu tư trong và ngoài nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong hoạt động của mình, góp phần tích cực vào việc kìm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, hoạt động của ngành vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những mặt được, ngành ngân hàng Việt Nam còn có những tồn tại. Một trong những tồn tại chủ yếu là số nợ khê đọng, nợ khó đòi còn lớn, làm suy giảm năng lực của hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng tới sự ổn định của hệ thống ngân hàng cũng như ổn định kinh tế. Chính vì vậy để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ của ngành, ngay từ đầu năm ngân hàng Nhà nước cũng như các TCTD đã có biện pháp để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, trên cơ sở an toàn và hiệu quả; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức đầu tư để tạo sự chu chuyển vốn thông suốt, khắc phục tình trạng ứ đọng vốn của các TCTD trong năm vừa qua. Trong năm tới đòi hỏi các ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng TMCP Quân Đội nói riêng đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hoạt động tín dụng chưa an toàn và chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối quan tâm không chỉ đối với giới quản lý và điều hành của hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội bởi vì đây là tín hiệu tổng hợp, vừa phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý hoạt động ngân hàng nói riêng, vừa phản ánh sự lớn mạnh và những mặt còn bất cập trong quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng.
Qua quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân Đội em nhận thấy mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng quân đội chính là một mục tiêu được các cổ đông, hội đồng quản trị cũng như ban lãnh đạo ngân hàng luôn quan tâm và đặt ra trong chương trình chiến lược của ngân hàng Quân Đội từ năm 2004 đến năm 2008. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NH TMCP Quân Đội” cho bản chuyên đề của mình với mong muốn góp phần làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng Quân Đội ngày càng có hiệu quả, an toàn, phát triển.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo PGS.TS Nguyễn Thị Mùi cùng các anh chị tại ngân hàng Quân Đội đã giúp em hoàn thành đề tài này. Bài chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng của NH TMCP Quân Đội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHQĐ
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động xã hội và xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Khi đó của cải tập trung trong tay một số người trong khi nhiều người khác có thu nhập thấp không đủ đáp ứng nhu cầu cần thiết. Vì vây xuất hiện quan hệ cho vay nặng lãi tiền thân của quan hệ tín dụng.
Ngày nay do sự phát triển và hiện đại hóa của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các quan hệ và các hình thức tín dụng cũng phải phát triển đa dạng và phong phú phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Trong đó tín dụng ngân hàng là hình thức chủ yếu nhất, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và kịp thời.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, hàng hóa và dich vụ theo nguyên tắc hoàn trả giữa một bên là các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội và dân cư. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Quá trình hình thành quan hệ tín dụng chính là quá trình hình thành các quan hệ vay mượn lẫn nhau trong xã hội. Đó là mối quan hệ vay mượn có hoàn trả cả gốc và lãi sau một khoảng thời gian nhất định, là quan hệ chuyển dịch tạm thời quyền sử dụng vốn, là quyền bình đẳng cả hai bên đều có lợi.
Đặc điểm tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là một loại hình tín dụng nên nó có đầy đủ các đặc điểm của tín dụng cùng với những đặc trưng riêng có của nó:
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay, căn cứ vào quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay, vào tính chất vốn của người cho vay.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: khấu hao TSCĐ, trả lương cán bộ công nhân viên, ... nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khỏan lãi.
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (động sản vả bất động sản).
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về phía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3 Các loại tín dụng ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, họat động tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng theo các tiêu thức khác nhau:
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, ...
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng...
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
* Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến đổi mới thiết bị, công nghệ, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh,...
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, ...
* Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
- Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố , hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
* Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khê ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân hàng thương mại thường cho vay gián tiếp theo hình thức chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng chịu của người bán, mua các khỏan nợ của DN,...
1.1.4 Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động tín dụng của ngân hàng đựơc hiểu bao gồm cả nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp vụ cho vay. ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng đó nền kinh tế phát triển sẽ kéo theo nhu cầu sử dụng vốn cũng đa dạng hơn, và chu kỳ tạm thời thừa vốn của các chủ thể trong nền kinh tế cũng đa dạng hơn. Ngân hàng thương mại lúc đó là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Nó đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: vốn tạm thời đựơc giải phóng ra từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi họat động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến êasy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.5 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Theo sự phát triển của nền kinh tế thị trường và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của tín dụng ngân hàng cũng ngày một tăng lên:
a. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất phát triển:
Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đã thu hút những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào nền kinh tế, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế.
Vốn là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều hình thức như vốn tự có, vốn do ngân sách cấp, vốn vay mượn. Nhưng nguồn vốn chủ yếu và thường xuyên nhất vẫn là nguồn vốn thông qua kênh tín dụng ngân hàng. Để được sử dụng nguồn vốn này khách hàng phải trả cho ngân hàng một số tiền lớn hơn số tiền đã vay sau một thời gian nhất định. Vì vậy, bất kỳ người vay vốn nào cũng mong muốn mình sản xuất kinh doanh có lãi để trả được nợ cho ngân hàng và có được một phần lợi nhuận giữ lại sau khi đã bù đắp các khoản chi phí. Để làm ăn có lãi trong nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi DN phải tạo cho mình một ưu thế và sức mạnh trong cạnh tranh, sản phẩm đa dạng, cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp. Tức là phải cung cấp cho thị trường những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tốt hơn, phong phú hơn, tạo điều kiện nâng cao uy tín và mở rộng thị phần cho mình. Điều này chứng tỏ tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng phát triển.
Ngoài ra, bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi với những ngành kinh tế mũi nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng lại cần thiết và có lợi cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy những ngành kinh tế này phát triển.
b. Tín dụng ngân hàng là công cụ điều hòa lưu thông tiền tệ, kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Do những điểm ưu việt của mình mà tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự ổn định của lưu thông tiền tệ. Qua hoạt động các DN mở tài khỏan và thanh toán qua ngân hàng ngày càng nhiều, với tính chất thường xuyên liên tục. Cũng như việc cho vay và thu nợ của ngân hàng gắn liền với sự vận động của giá trị vật tư hàng hóa trong quá trình sản xuất và lưu thông, đã tạo ra những tiền đề kinh tế khách quan cho phép nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng sử dụng công cụ lưu thông tín dụng để kiểm soát khối lượng tiền cũng như chất lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Sự phát triển của nghiệp vụ tín dụng đi đôi với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông, góp phần ổn định lưu thong tiền tệ. Đây cũng là một nhân tố quan trọng để kiềm chế lạm phát, giúp nền kinh tế phát triển.
c. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp các đơn vị thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh:
Trong quá trình hoạt động tín dụng, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất là phải thu hồi được vốn và có lãi. Do vậy khi sử dụng vốn vay ngân hàng, các đơn vị vay vốn phải thực hiện đầy đủ các điều khoản đã ghi trong hợp đồng tín dụng, là đảm bảo trả nợ vay đúng hạn và một số điều khoản khác. Qua đó đòi hỏi đơn vị vay vốn phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí, tăng cường vòng quay vốn... Mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động tìm kiếm thị trường và thực hiện các biện pháp như: ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, mở rộng thị trường... Như vậy tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong việc quản lý tài chính, kiểm soát các quá trình sản xuất phân phối sản phẩm xã hội, thực hiện và củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong tất cả các ngành và lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
d. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới:
Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới. Một nước không thế phát triển nếu nước đó không quan hệ với bên ngoài. Trong mối quan hệ kinh tế đó, sự hợp tác bình đẳng hai bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được mở rộng và phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Đây là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Việc nhận vốn hay chuyển vốn đầu tư đều phải thông qua ngân hàng. Vì vậy tín dụng ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. ở nước ta trong những năm qua, tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào quá trình hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới.
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG:
Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được hình thành và đảm bảo từ hai phía là ngân hàng và khách hàng. Nghĩa là sau một quá trình chu chuyển vốn, ngân hàng vừa thu được cả gốc và lãi, còn khách hàng thì làm ăn có hiệu quả. Bởi vậy, chất lượng hoạt động của ngân hàng không những phụ thuộc vào bản thân của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Như ta đã nghiên cứu ở trên, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng cho vay mà còn có ý nghĩa với khách hàng vay vốn và với toàn bộ nền kinh tế. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng được xem xét dưới góc nhìn của các chủ thể sau:
a. Đối với các ngân hàng thương mại:
Với tư cách là trung gian tài chính trong nền kinh tế, việc nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng tăng cường nguồn vốn của mình. Nếu chất lượng tín dụng tốt, biểu hiện bằng việc áp dụng linh hoạt và hiệu quả công tác huy động vốn thì sẽ tạo được nguồn vốn phong phú, đa dạng làm cơ sở cho việc tạo ra cơ cấu tài sản có phù hợp với cơ cấu tài sản nợ. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng giúp ngân hàng bảo toàn được vốn của mình bởi vì khi cho vay có hiệu quả, có khả năng thu hồi cả gốc và lãi, ngân hàng sẽ không phải dùng nguồn vốn để bù đắp, mà nguồn vốn này phần lớn là của khách hàng. Do vậy, chất lượng tín dụng tốt là điều kiện để ngân hàng bảo toàn vốn của mình và của khách hàng gửi tại ngân hàng. Mặt khác, nâng cao chất lượng tín dụng là cơ sở để ngân hàng tăng cường lợi nhuận cho mình vì phần lớn lợi nhuận thu được hàng năm của ngân hàng được hình thành từ việc thu lãi từ các khoản tiền cho vay.
Hơn thế nữa, nâng cao chất lượng tín dụng giúp ngân hàng nâng cao được nghiệp vụ tín dụng, có thêm nhiều kinh nghiệm, xử lý nhanh các tình huống xảy ra, có khả năng phán đoán tốt. Từ đó sẽ nâng cao uy tín cho ngân hàng, mở rộng thị phần và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, đồng thời đảm bảo q