Ai cũng biết tín dụng chiếm vị trí quan trọng như thế nào trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam chẳng thế mà đã có biết bao đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho hệ thông Ngân hàng thương mại trong thời gian qua. Và do đó chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại việt nam đã từng bước được cải thiện đáng kể. Các chỉ tiêu an toàn vốn tối thiều đã dần được cải thiện.
Vậy tại sao vấn đề tín dụng vẫn làm cho mọi người quan tâm đến như vậy? Câu trả lời đó là, thực ra trong thời gian qua chất lượng tín dụng có giảm nhưng điều đó không nói lên gì nhiều cho hệ thống Ngân hàng việt nam vì họ thực sự đang phải đối mặt với các nguy cơ mới nguy hiểm hơn cho họ liên quan đến vấn đề tín dụng, mà trực tiếp là tín dụng trung dài hạn.
Thứ nhất: trong thời gian các Ngân hàng đã thực hiện cơ cấu lại bằng cách chủ yếu là giải quyết triệt để các khoản nợ tồn đọng. Hạn chế cho vay khách hàng mới, mở rộng tín dụng. Dành thời gian chủ yếu để cơ cấu và tái cơ cấu lại. Tuy rằng chất lượng tín dụng tăng nhưng theo chiều hướng thu hẹp, lẽ ra trong khoảng thời gian này các Ngân hàng có thể tận dụng để phát triển về mọi mặt nhằm tăng quy mô, sức cạnh tranh thì họ hầu như chỉ củng cố và phát triển một cách chậm chạp. thị phần của các Ngân hàng đã không tăng đáng kể mà lại còn giảm xuống nhường chỗ cho các Ngân hàng liên doanh,các Ngân hàng mới thành lập. Như vậy khoảng thời gian “ưu đãi” đã gần hết trong khi sức cạnh tranh của các Ngân hàng vẫn nằm tại chỗ. Nói đúng hơn là. Mức tăng trưởng của các Ngân hàng so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,và trong bối cảnh hiện tại là thực sự chưa tương xứng. Đến nay khi đã sắp thoát khỏi khủng hoảng đổi đời thì các Ngân hàng thương mại Quốc doanh Việt Nam lại có xu hướng lâm vào một chu kỳ khủng hoảng mới. Theo vết xe đổ cũ.
Vào các năm trước năm 1998 các Ngân hàng thương mại Quốc doanh đầu tư ồ ạt vào các doanh nghiệp ngoài Quốc doanh trong khi các doanh nghiệp này chưa xác lập được vị thế, làm ăn không hiệu quả. Dẫn đến hàng loạt Ngân hàng lâm vào khủng hoảng. Thì nay sau thời gian cơ cấu lại các Ngân hàng không dám đầu tư vào các doanh nghiệp ngoài Quốc doanh mà chỉ cầm chừng theo dõi trong khi thành phần này ngày càng có vị thế đáng nể trong nền kinh tế. Trong khi đó thành phần kinh tế Quốc doanh thì ngày càng tỏ rõ sự kém hiệu quả. Như vậy các Ngân hàng có thể lập lại vết xe đổ cũ nhưng theo chiều hướng ngược lại. Ngân hàng Công thương Thanh Hoá cũng không phải là ngoại lệ.
Thứ hai: Thực sự các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thường không thể thực hiện được trong thực tế. Do tầm vĩ mô của các đề tài nghiên cứu khó có thể áp dụng cho hầu hết các Ngân hàng trong cả nước vốn có các điều kiện rất khác nhau. Và do các nhà nghiên cứu chưa chú trọng đúng mức đến vấn đề thực thi nó. Các kiến nghị đưa ra thường chung chung, trìu tượng, mang tính chiếu lệ. Khó thuyết phục các nhà quản trị Ngân hàng.
Thứ ba: Ngân hàng Công thương Thanh Hoá hiện nay là một trong những doanh nghiệp làm ăn có lãi. Nhưng điều này chưa đủ để khẳng định Ngân hàng không thể gặp rủi ro trong tương lai do Ngân hàng có quan hệ với rất nhiều khách hàng lớn, nhưng không phải tất cả đều là khách hàng mạnh, mà hầu hết là cho vay các doanh nghiệp nhà nước,làm ăn bấp bênh, các doanh nghiệp có quan hệ lâu đời. Các chu kỳ cho vay,đảo nợ, dãn nợ, cho vay cứ diễn ra liên tiếp. Và cho vay theo chỉ định vẫn diễn ra thường xuyên. Vì thế chỉ cần một trong số các khách hàng bị phá sản thì Ngân hàng đó nhất định gặp rủi ro. Cho đến nay thì chưa có biện pháp nào là có thể loại trừ hoàn toàn được rủi ro cho Ngân hàng trong việc cho vay trung dài hạn, nó luôn rình rập các Ngân hàng mọi lúc mọi nơi, và vì thế việc lật lại cũng là góp phần làm cho Ngân hàng không mất cảnh giác. Tăng cường các giải pháp hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
Thứ tư: Các Ngân hàng thương mại Quốc doanh Việt Nam hiện có thị phần chủ yếu trên thị trường thì nguồn tín dụng trung dài hạn chủ yếu của họ được rót cho các doanh nghiệp nhà nước nơi được đánh giá là không hiệu quả và xu hướng này vẫn còn chiều hướng phát triển. Điều này có thể thấy rằng trên thị trường tài chính Việt Nam nguồn vốn được phân bổ không hiệu quả tức là các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang đầu tư cho hiện tại chứ không phải cho tương lai vì tương lai của Ngân hàng là sự phát triển của khách hàng mà trong tương lai không phải là khối các doanh nghiệp Quốc doanh. điều này thì ai cũng có thể thấy. Vì thế các Ngân hàng cần phải điều tiết lại cách thức phân bổ vốn tín dụng sao cho đạt hiệu quả, vì tương lai của Ngân hàng.
Thứ năm: sau quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Thanh Hóa em nhận thấy rằng vấn đề chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng còn có nhiều điều chưa hợp lý, cần thiết phải có biện pháp giải quyết, điều chỉnh theo phương hướng thiết thực, hiệu quả.
Và vì thế được sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú cán bộ tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá và Thầy giáo hướng dẫn: Nguyễn Thanh Phương em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá”.
83 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Ai cũng biết tín dụng chiếm vị trí quan trọng như thế nào trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam chẳng thế mà đã có biết bao đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho hệ thông Ngân hàng thương mại trong thời gian qua. Và do đó chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại việt nam đã từng bước được cải thiện đáng kể. Các chỉ tiêu an toàn vốn tối thiều đã dần được cải thiện.
Vậy tại sao vấn đề tín dụng vẫn làm cho mọi người quan tâm đến như vậy? Câu trả lời đó là, thực ra trong thời gian qua chất lượng tín dụng có giảm nhưng điều đó không nói lên gì nhiều cho hệ thống Ngân hàng việt nam vì họ thực sự đang phải đối mặt với các nguy cơ mới nguy hiểm hơn cho họ liên quan đến vấn đề tín dụng, mà trực tiếp là tín dụng trung dài hạn.
Thứ nhất: trong thời gian các Ngân hàng đã thực hiện cơ cấu lại bằng cách chủ yếu là giải quyết triệt để các khoản nợ tồn đọng. Hạn chế cho vay khách hàng mới, mở rộng tín dụng. Dành thời gian chủ yếu để cơ cấu và tái cơ cấu lại. Tuy rằng chất lượng tín dụng tăng nhưng theo chiều hướng thu hẹp, lẽ ra trong khoảng thời gian này các Ngân hàng có thể tận dụng để phát triển về mọi mặt nhằm tăng quy mô, sức cạnh tranh thì họ hầu như chỉ củng cố và phát triển một cách chậm chạp. thị phần của các Ngân hàng đã không tăng đáng kể mà lại còn giảm xuống nhường chỗ cho các Ngân hàng liên doanh,các Ngân hàng mới thành lập. Như vậy khoảng thời gian “ưu đãi” đã gần hết trong khi sức cạnh tranh của các Ngân hàng vẫn nằm tại chỗ. Nói đúng hơn là. Mức tăng trưởng của các Ngân hàng so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế,và trong bối cảnh hiện tại là thực sự chưa tương xứng. Đến nay khi đã sắp thoát khỏi khủng hoảng đổi đời thì các Ngân hàng thương mại Quốc doanh Việt Nam lại có xu hướng lâm vào một chu kỳ khủng hoảng mới. Theo vết xe đổ cũ.
Vào các năm trước năm 1998 các Ngân hàng thương mại Quốc doanh đầu tư ồ ạt vào các doanh nghiệp ngoài Quốc doanh trong khi các doanh nghiệp này chưa xác lập được vị thế, làm ăn không hiệu quả. Dẫn đến hàng loạt Ngân hàng lâm vào khủng hoảng. Thì nay sau thời gian cơ cấu lại các Ngân hàng không dám đầu tư vào các doanh nghiệp ngoài Quốc doanh mà chỉ cầm chừng theo dõi trong khi thành phần này ngày càng có vị thế đáng nể trong nền kinh tế. Trong khi đó thành phần kinh tế Quốc doanh thì ngày càng tỏ rõ sự kém hiệu quả. Như vậy các Ngân hàng có thể lập lại vết xe đổ cũ nhưng theo chiều hướng ngược lại. Ngân hàng Công thương Thanh Hoá cũng không phải là ngoại lệ.
Thứ hai: Thực sự các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thường không thể thực hiện được trong thực tế. Do tầm vĩ mô của các đề tài nghiên cứu khó có thể áp dụng cho hầu hết các Ngân hàng trong cả nước vốn có các điều kiện rất khác nhau. Và do các nhà nghiên cứu chưa chú trọng đúng mức đến vấn đề thực thi nó. Các kiến nghị đưa ra thường chung chung, trìu tượng, mang tính chiếu lệ. Khó thuyết phục các nhà quản trị Ngân hàng.
Thứ ba: Ngân hàng Công thương Thanh Hoá hiện nay là một trong những doanh nghiệp làm ăn có lãi. Nhưng điều này chưa đủ để khẳng định Ngân hàng không thể gặp rủi ro trong tương lai do Ngân hàng có quan hệ với rất nhiều khách hàng lớn, nhưng không phải tất cả đều là khách hàng mạnh, mà hầu hết là cho vay các doanh nghiệp nhà nước,làm ăn bấp bênh, các doanh nghiệp có quan hệ lâu đời. Các chu kỳ cho vay,đảo nợ, dãn nợ, cho vay cứ diễn ra liên tiếp. Và cho vay theo chỉ định vẫn diễn ra thường xuyên. Vì thế chỉ cần một trong số các khách hàng bị phá sản thì Ngân hàng đó nhất định gặp rủi ro. Cho đến nay thì chưa có biện pháp nào là có thể loại trừ hoàn toàn được rủi ro cho Ngân hàng trong việc cho vay trung dài hạn, nó luôn rình rập các Ngân hàng mọi lúc mọi nơi, và vì thế việc lật lại cũng là góp phần làm cho Ngân hàng không mất cảnh giác. Tăng cường các giải pháp hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
Thứ tư: Các Ngân hàng thương mại Quốc doanh Việt Nam hiện có thị phần chủ yếu trên thị trường thì nguồn tín dụng trung dài hạn chủ yếu của họ được rót cho các doanh nghiệp nhà nước nơi được đánh giá là không hiệu quả và xu hướng này vẫn còn chiều hướng phát triển. Điều này có thể thấy rằng trên thị trường tài chính Việt Nam nguồn vốn được phân bổ không hiệu quả tức là các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang đầu tư cho hiện tại chứ không phải cho tương lai vì tương lai của Ngân hàng là sự phát triển của khách hàng mà trong tương lai không phải là khối các doanh nghiệp Quốc doanh. điều này thì ai cũng có thể thấy. Vì thế các Ngân hàng cần phải điều tiết lại cách thức phân bổ vốn tín dụng sao cho đạt hiệu quả, vì tương lai của Ngân hàng.
Thứ năm: sau quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Thanh Hóa em nhận thấy rằng vấn đề chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng còn có nhiều điều chưa hợp lý, cần thiết phải có biện pháp giải quyết, điều chỉnh theo phương hướng thiết thực, hiệu quả.
Và vì thế được sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú cán bộ tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá và Thầy giáo hướng dẫn: Nguyễn Thanh Phương em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá”.
Đề tài gồm ba phần:
1. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
2. Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá.
3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh chị cán bộ tại Ngân hàng Công thương Thanh Hoá và thầy giáo : Nguyễn Thanh Phương. đã nhiệt tình giúp đỡ cho em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG I : CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1/ KHÁI NIỆM VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1/ Tín dụng trung và dài hạn - một hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
1.1.1.1/ Khái niệm Ngân hàng thương mại.
Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt động của nhiều thành phần kinh tế và dân cư. Lịch sử hình thành Ngân hàng bắt đầu từ rất lâu. Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm dịch vụ giữ tiền hộ. Dựa trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những thương nhân này chuyển từ việc giữ tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí và huy động vốn có trả lãi để khuyến khích người có tiền nhàn rỗi trong xã hội, rồi sử dụng số tiền đó để kinh doanh trực tiếp cho vay lấy lãi. Ngày nay Ngân hàng Thương Mại (NHTM) được định nghĩa như sau:
NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay đầu tư, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản.
NHTM giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yêú được thực hiện bằng cách thu hút vốn trong xã hội để cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và rủi ro thấp nhất.
1.1.1.2/ Hoạt động của Ngân hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà các mối quan hệ kinh tế, phân phối sản phẩm, phân phối lợi ích do các quy luật của thị trường điều tiết chi phối.
Kinh tế thị trường có những đặc điểm cơ bản sau:
- Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, mỗi đơn vị kinh tế được tự do tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật.
- Cạnh tranh là quy luật của thị trường.
- Khách hàng giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế.
- Tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế đều được tiền tệ hoá.
Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường, từ đặc điểm kinh doanh tiền tệ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà các Ngân hàng hiện nay hoạt động theo hướng đa năng tập trung vào ba hoạt động chính sau đây:
- Hoạt động huy động vốn.
- Hoạt động cho vay đầu tư.
- Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác.
Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là một hoạt động quan trọng của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ như Ngân hàng . Hoạt động này bao gồm huy động các nguồn tiền gửi (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi giao dịch và phi giao dịch), các khoản đi vay (vay từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác), tiền nhận uỷ thác đầu tư, tiền góp vốn liên doanh.
Ngoài ra các NHTM còn huy động vốn từ việc vay của Ngân hàng nhà nước, vay trên thị trường liên Ngân hàng hoặc vay từ các thị trường vốn lớn trên thế giới.
Hoạt động huy động vốn có vai trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động khác của Ngân hàng .
Hoạt động cho vay và đầu tư.
Đây là hoạt động cấp vốn cho nền kinh tế trên cơ sở an toàn số vốn đã cấp ra và số tiền thu được từ khoản vôn đã cấp phải lớn hơn tổng chi phí bao gồm các chi phí cho hoạt động huy động vốn cũng như các chi phí khác có liên quan.
Trong hoạt động cho vay, thu nhập chủ yếu của Ngân hàng là lãi cho vay, các khoản cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như thời hạn cho vay, đối tượng cho vay, tính chất bảo đảm của khoản vay… Thông thường người ta chia các khoản vay theo thời hạn của chúng là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn do các thời hạn vay dài hơn nên rủi ro cao hơn.
Trong hoạt động đầu tư mà ở đây chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán, mục đích của việc đầu tư vào chứng khoán là tìm kiếm lợi nhuận và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh Ngân hàng . Mặt khác nắm giữ chứng khoán cũng là một cách bảo đảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng thông qua việc đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao như: tín phiếu và trái phiếu kho bạc Nhà nước.
Các NHTM Việt Nam hiện nay, lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm từ 50% -70% tổng lợi nhuận. Tuy nhiên đây là hoạt động chứa đựng rủi ro cao nên các Ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng hoạt động này.
Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác.
Các NHTM đóng vai trò trung gian thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của khách hàng như thanh toán, thu hộ, chi hộ, chuyển tiền, uỷ thác… Bên cạnh đó các NHTM cũng cung các cấp loại hình dịch vụ có liên quan đến tài chính như dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh… Các hoạt động này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn đem lại được nguồn thu lớn.
1.1.1.3/ Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu cần vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng những phương pháp kỹ thuật hiện đại theo hướng tiên tiến, Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi đúng lúc, phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Như vậy, có thể hiểu tín dụng Ngân hàng là quá trình cho vay của Ngân hàng đối với các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp có mối quan hệ với Ngân hàng cùng những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả (gốc và lãi), lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Thông thường tín dụng được chia làm hai loại là tín dụng ngắn hạn là tín dụng trung và dài hạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn hay còn gọi là tín dụng thương mại thường được dùng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Còn các khoản tín dụng trung và dài hạn lại chủ yếu được dùng để đáp ứng nhu cầu đầu tư vào các tài sản cố định của doanh nghiệp. Tín dụng trung và dài hạn có đặc điểm là số lượng vốn vay lớn, thời gian vay dài(trên 1 năm), tiền vay lại được dùng để đầu tư mua sắm, xây lắp tài sản cố định, do vậy các chủ đầu tư thường phải lập một dự án gửi đến Ngân hàng . Dự án đầu tư được hiểu là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục đích, phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được những kết quả và mục đích nhất định sau một khoảng thời gian xác định.
Tín dụng trung dài hạn có thể được phân loại như sau:
- Căn cứ vào đồng tiền cho vay có tín dụng trung và dài hạn bằng ngoại tệ, tín dụng trung và dài hạn bằng bản tệ.
- Căn cứ vào tính chất có bảo đảm có thể chia thành tín dụng trung và dài hạn có bảo đảm và tín dụng trung và dài hạn không có bảo đảm.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay có thể chia thành tín dụng trung dài hạn đầu tư trong nước và tín dụng trung dài hạn xuất nhập khẩu.
- Tín dụng tuần hoàn: Là phương thức cho vay vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài từ 1 đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
- Thuê mua: Đây là hình thức cho vay trung và dài hạn nhưng bằng thiết bị thay bằng tiền, người đi thuê có quyền mua lại tài sản đó theo giá thoả thuận trong hợp đồng.
- Bảo lãnh trung và dài hạn mua thiết bị trả chậm.
1.1.1.4/ Các đặc trưng cơ bản của tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung dài hạn là một loại hình tín dụng và nó được phân biệt với các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau:
* Thời hạn cho vay.
Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và tín dụng ngắn hạn là thời hạn cho vay.
- Tín dụng ngắn hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá 12 tháng.
- Tín dụng trung, dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của nguồn vốn cho vay, trong đó:
+ Tín dụng trung hạn có thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60 tháng tuỳ theo quy định của từng Ngân hàng .
+ Tín dụng dài hạn có thời gian trên 36 tháng hoặc 60 tháng.
* Đối tượng cho vay:
Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo công nghệ
Trong quan hệ tín dụng Ngân hàng , đối tượng cho vay trung dài hạn là các công trình, hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định. Của các đơn vị kinh tế có luận chứng kỹ thuật tốt, xác thực và tổng dự toán đã phê duyệt.
* Nguyên tắc và điều kiện vay vốn.
Khách hàng muốn vay vốn của Ngân hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc tín dụng cơ bản. Đó là:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi vay trung dài hạn, người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh. Các dự án này phải được thể hiện một cách đầy đủ, rõ ràng việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Mục tiêu này phải nằm trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của vùng và cúa đất nước. Để cho dự án được thực hiện, cần có sự thông qua, cho phép của cơ quan có thẩm quyền.
- Phải hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước.
Trên cơ sở các nguyên tắc trên, mỗi Ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc, các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện vốn vay của Ngân hàng . Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản cụ thể thì khác nhau phụ thuộc vào mỗi Ngân hàng và thời điểm lịch sử.
Do các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn nên thời gian thu hồi vốn là rất lâu, có khả năng gặp nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng nên việc cho vay trung dài hạn phải tuân theo quyết định 367/QĐNH1 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thể lệ tín dụng trung dài hạn như sau:
- Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi, có vốn tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự toán công trình đầu tư.
- Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và thể lệ tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng .
- Doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành bằng vốn vay tại một Công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, nếu tài sản đó quy định phải mua bảo hiểm và cam kết sử dụng số tiền bồi thường khi gặp rủi ro để trả nợ. Trường hợp không mua bảo hiểm do tổng giám đốc Ngân hàng quy định.
- Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện:
+ Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép sử dụng đất do các cấp có thẩm quyền cấp để đảm bảo được tính pháp lý cho công trình.
+ Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tư máy móc thiết bị và nếu là nhập khẩu trực tiếp thì phải có giấy phép nhập khẩu hợp pháp.
- Đối với công trình dự án của các đơn vị kinh tế của các đơn vị kinh tế đã và đang hoạt động kinh doanh ổn định, đang có lãi thực sự, có xu hướng phát triển tốt phù hợp với cơ chế kinh tế mới, phải có vốn tham gia tối thiểu 30% tổng dự toán công trình.
Hiện nay theo quy định mới của chính phủ, các đơn vị kinh doanh nếu chứng minh được mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà không cần thế chấp.
1.1.2/ Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam.
1.1.2.1/ Tín dụng trung và dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải biết nắm bắt và tìm mọi cách thoả mãn nhu câù ngày càng cao của người tiêu dùng. Điều đó đồng nghĩa với doanh nghiệp cần có vốn để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Nguồn vốn ngắn hạn sẽ chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu vốn tạm thời trong doanh nghiệp chứ không thể giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại. Do đó, doanh nghiệp cần đến nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn. Đối với Việt Nam thì vay vốn Ngân hàng được coi là lối thoát lớn nhất cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Bởi vậy nếu các Ngân hàng chỉ chịu cung cấp vốn với thời gian ngắn hạn thì các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức tái sản xuất, không có cơ hội tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đem lại năng lực sản xuất cao hơn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc đầu tư trung dài hạn nhằm tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự tăng cường thực sự vững bền, đó là đảm bảo phát triển treo chiều sâu.
1.1.2.2 / Thúc đẩy mở rộng sản xuất phát triển.
Cho vay trung dài hạn đối với các thành phần kinh tế thực sự là loại hình đầu tư chiều sâu nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, vì thế tín dụng trung và dài hạn thực sự là một cứu cánh khi doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển mà không có vốn đầu tư. Khi đã có vốn nghĩa là một dự án đầu tư đã đi vào hoạt động, là một cơ hội mở rộng sản xuất, cơ sở trang thiết bị đầy đủ làm cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng lên, theo đó mà sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không những nhiều về số lượng, đa dạng về mẫu mã chủng loại, phong phú về chất lượng, kích thích nhu cầu xã hội.
1.1.2.3/ Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn.
Tín dụng trung và dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bi và xây dựng cơ bản do đó kích thích sản xuất phát triển. Khi đó, các doanh nghiệp cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều này tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao thì nhu cầu vốn lưu động càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển.
1.1.2.4/ Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng Công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng nhu cầu của ngành này chứ không phải ngành khác. Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là tập trung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật,đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu… Để thực hiện được điều đó, phải duy trì tốc độ tăng trưởng c