Hiện nay trên địa bàn thành phố, nhiều hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ diễn ra sôi nổi, nhu cầu về vốn không thể thiếu đối với cá nhân, doanh nghiệp. Thêm vào đó, các Ngân hàng thương mại ra đời hàng loạt, điều này làm cho khách hàng lúng túng trong việc chọn ngân hàng làm nhà tài trợ để đáp ứng nhu cầu của mình.
Về phía ngân hàng, để đảm bảo hoạt động kinh doanh, ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì chính bản thân ngân hàng phải đưa ra chiến lược kinh doanh vừa tạo ra doanh thu vừa cạnh tranh lành mạnh với ngân hàng khác. Giữ vai trò chủ chốt trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại luôn phải đứng trước sự lựa chọn giữa khách hàng tốt và khách hàng kém uy tín.
Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng cơ bản của ngân hàng. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Yếu tố lợi nhuận thường đi kèm với rủi ro do đó rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Lịch sử hoạt động ngành ngân hàng từng chứng kiến trong những năm 1990, đã có không ít ngân hàng thương mại cổ phần bị rút giấy phép hoạt động hoặc phải sáp nhập với đơn vị khác vì không chịu nổi tổn thất từ những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và SGD II - Ngân hàng Đầu tư và Phát Triển Việt Nam nói riêng cũng đứng trước thách thức mới và kèm theo là những rủi ro tiềm ẩn mới.
Trước tình hình cấp thiết đó, cộng với những kiến thức có được trong quá trình nghiên cứu thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển – Sở Giao dịch II, em quyết định chọn tên đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển – Sở Giao dịch II”. để từ đó có nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của chất lượng tín dụng đối với sự an toàn và vững mạnh của NHTM nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển – Sở Giao dịch II nói riêng.
38 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại ngân hàng Đầu Tư và Phát triển – Sở Giao dịch II, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ sở lý luận tín dụng ngân hàng
Khái niệm và bản chất tín dụng ngân hàng:
Khái niệm:
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian xác định trả lại với một lượng lớn hơn. Khái niệm trên thể hiện ở 3 đặc điểm cơ bản, nếu thiếu một trong ba đặc điểm sau thì sẽ không còn là phạm trù tín dụng nữa:
Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác.
Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời
Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức .
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng là người đi vay cũng đồng thời là người cho vay.
Bản chất:
Trong điều kiện kinh tế hiện nay tồn tại nhiều phương thức sản xuất. Do vậy các chủ thể trong quan hệ tín dụng của mỗi phương thức cũng khác nhau. Nhìn chung quá trình vận động của tín dụng luôn gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh và được biểu hiện thông qua ba giai đoạn:
Giai đọan 1: Phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay:
Lúc này vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ người cho vay sang người đi vay. Đây là điểm cơ bản khác với việc mua bán thông thường, vì chỉ có một bên nhận gia trị này, vốn vay được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ theo hình thái giá trị của nó.
Giai đọan 2: Sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất:
Sau khi nhận được vốn tín dụng, người đi vay chuyển quyền sử dụng vốn vào mục đích sử dụng nhất định. Có thể trực tiếp sử dụng nếu vốn dưới dạng hàng hoá, nếu vay bằng tiền thì để thoả mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của ngườiđi vay. Tuy nhiên quyền sử dụng chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định chứ không có quyền sở hữu giá trị đó.
Giai đọan 3: Sự hoàn trả của tín dụng :
Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Khi vốn tín dụng đã hoàn tất một chu kỳ sản xuất để trở thành hình thái tiền tệ. Và nó được hoàn lại cho người cho vay.
Sự hoàn trả tín dụng là đặc trưng vận dụng của tín dụng. Hình thái vật chất của nó là tiền hay hiện vật. Tín dụng thể hiện ra bên ngoài không phải là một phương thức lưu thông mà là một lượng giá trị được vận động. Do vậy sự hoàn trả luôn luôn được bảo toàn về mặt giá trị của phần vốn gốc và cộng thêm một khoản lãi. Khoản lãi này với tư cách là giá cả, nó lên xuống phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về tiền tệ.
Nói tóm lại tín dụng chỉ :
Thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu.
Có thời hạn tín dụng được xác định do thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay
Người sở hữu tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
Chức năng của tín dụng:
Tập trung và phân phối lại tiền tệ:
Đây là hai quá trình thống nhất trong sự vận hành của hệ thống tín dụng. Với chức năng này, tín dụng đã điều tiết các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế để bổ sung kịp thời cho các doanh nghiệp, các cá nhân đang gặp thiếu hụt về vốn. như vậy tín dụng vừa góp phần cung ứng vốn cho doanh nghiệp, vừa là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư và làm tăng hiệu suất sử dụng vốn của nền kinh tế.
Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
Hoạt động tín dụng tạo điều kiện cho sự ra đời của bút tệ, mở rộng các nghiệp vụ thanh toán và các phương tiện thanh toán hiện đại không dùng tiền mặt. từ đó giảm nhu cầu tiền mặt trong lưu thông, giảm áp lực lạm phát, giảm bớt các chi phí có liên quan như in, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản tiền…Đồng thời, tín dụng ngân hàng đã mở ra khả năng lớn trong việc mở tài khoản và dịch vụ thanh toán thông qua ngân hàng dưới các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ cho nhau
Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Chức năng này được phát huy tác dụng phụ thuộc vào sự phát triển của chứa năng trên, cụ thể là:
Thông qua việc huy động vốn và cho vay của ngân hàng sẽ phản ánh được mức độ phát triển nền kinh tế về các mặt: khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn của nền kinh tế
Mặt khác qua nghiệp vụ cho vay, ngân hàng có điều kiện nhìn tổng quát vào cấu trúc tài chính của từng đơn vị vay vốn, từ đó phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý của nhà nước.
Thông qua nghiệp vụ trung gian thanh toán hộ, ngân hàng có khả năng tăng cường vai trò kiểm soát các dòng luân chuyển tiền tệ của các đơn vị kinh tế, vì mọi quá trình hình thành sử dụng vốn của doanh nghiệp đều được phản ánh qua số liệu trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.
Vai trò của tín dụng:
Góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển:
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định choa doanh nghiệ, vì vậy tín dụng động viên hàng hóa đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào trong quá trình sản xuất. Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả
Qua chức năng tập trung, tín dụng đã tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, góp phần trực tiếp làm lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông. Nhờ huy động kịp thời những nguồn vốn này sẽ ngăn chặn những ảnh hưởng xấu gây mất cân đối trong quan hệ tiền-hàng và những biến động có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống tiền tệ.
Mặt khác, tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là nhân tố tích cực giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế là một bộ phận mà nhà nước khó quản lý và dễ bị tác động của qui luật lưu thông tiền tệ.
Tín dụng là công cụ vĩ mô quan trọng và có hiệu quả nhất của nhà nước trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ, góp phần trong việc kiềm chế lạm phát và ổn định xã hội.
Trong chức năng phân phối, tín dụng được cấp đối với tất cả các đối tượng thuộc các thành phần kinh tế nhưng có sự lựa chọn những khách hàng có khả năng làm ăn hiệu quả nhằm ổn định kinh tế, tiền tệ.
Từ những phân tích trên cho thấy tín dụng đã góp phần rất lớn trong việc ổn định tiền tệ, tạo điều kiện để ổn định giá cả, và là tiền đề quan trọng để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển.
Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển
Hoạt động của các trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Phân loại tín dụng:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng cơ bản, dầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
Cho vay sản xuất kinh doanh (công nghiệp, thương mại)
Cho vay nông nghiệp
Cho vay tiêu dùng
Căn cứ vào đối tượng tín dụng
Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được sử dụng để cho vay bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này thường được chia thành các loại sau: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay thanh toán các khoản dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được cấp phát hình thành tài sản cố định, loại tín dụng này thường đầu tư để mua sắm tài sản cố định mở rộng, cải tiến quá trình sản xuất, thời hạn cho vay loại tín dụng này là trung và dài hạn.
Căn cứ vào đối tượng trả nợ:
Tín dụng trực tiếp: người đi vay là người trả nợ
Tín dụng gián tiếp: người đi vay không phải là người trả nợ
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
Tín dụng có đảm bảo:Là loại cho vay buộc khách hàng phải có tài sản thế chấp hay cầm cố, có thể đối nhân hoặc đối vật phải có người thứ ba, sử dụng đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng
Tín dụng không đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản thế châp, cầm cố hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng, sử dụng với các khách hàng tốt trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng tại ngân hàng thương mại
Chỉ tiêu định tính:
Uy tín của ngân hàng:
Nếu một ngân hàng có uy tín nó sẽ có khả năng thu hút nhiều khách hàng hơn. Ngược lại, nếu một ngân hàng có số lượng khách hàng đông đảo và là những khách hàng có uy tín thì đó là một dấu hiệu cho thấy hiệu quả tín dụng của ngân hàng là khả quan.
Ngoài ra ngân hàng phải thực sự trở thành người bạn của khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với khách hàng. Nếu khách hàng gặp phải những khó khăn bất khả kháng thì ngân hàng có thể xem xét giúp đỡ để cùng tháo gỡ, ngân hàng cũng có thể là người cung cấp các thông tin bổ ích về thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ cho khách hàng.
Nỗ lực của khách hàng vay vốn:
Bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tức là hoạt động tín dụng phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải các chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro.
Điều này đòi hỏi khách hàng phải tuân thủ đúng các nguyên tắc vay vốn. Mục đích sử dụng vốn vay đã ký kết trong hợp đồng tín dụng đã được cả hai bên: ngân hàng và khách hàng phân tích và đánh giá kỹ lưỡng cả về hiệu quả, tính khả thi cũng như mức độ phù hợp với chính sách phát triển kinh tế -xã hội chung của ngành của địa phương và của cả nước do đó sử dụng vốn vay đúng mục đích là một trong những điều kiện đảm bảo đạt được mục tiêu đã đề ra ban đầu. Ngoài ra sự năng động nhạy bén trong kinh doanh của khách hàng và sự giúp đỡ hiệu quả của ngân hàng sẽ tạo điều kiện để khách hàng đạt lợi nhuận cao nhất và đó chính là điều kiện để khách hàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng .
Sự ổn định của nền tài chính quốc gia:
Sự ổn định của nền tài chính -tiền tệ quốc gia, giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ cho doanh nghiêp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư.
Tóm lại: Như vậy, có thể nói hiệu quả tín dụng ngân hàng là một chỉ tiêu rất tổng hợp được nhìn nhận từ ba góc độ: Ngân hàng, Khách hàng và nền kinh tế. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ để đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng một cách khái quát. Để có thể kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể .
Chỉ tiêu định lượng:
Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận:
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng / Tổng dư Nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng. Nó cho biết một đồng dư nợ cho vay mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại càng lớn, đó là một trong những nhân tố tạo nên hiệu quả tín dụng cao của ngân hàng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng / Tổng dư Nợ ngân hàng
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tầm quan trọng của hoạt động tín dụng ngân hàng trong mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ hầu hết lợi nhuận của ngân hàng có đuợc là từ hoạt động cho vay
Chỉ tiêu về Dư nợ cho vay( Dư nợ cho vay / Tổng tài sản):
Chỉ tiêu này cho biết tương quan so sánh về quy mô cho vay so với tổng tài sản của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ các khoản cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng.
Chỉ tiêu về thu Nợ (Doanh số thu nợ / Tổng dư Nợ bình quân)
Tốc độ tăng trưởng của doanh số thu nợ: Chỉ tiêu này đo lường tốc độ tăng trưởng của doanh số thu nợ qua các thời kỳ. Tốc độ tăng doanh số thu nợ cao chứng tỏ công tác thu nợ của ngân hàng đang được tiến hành rất tốt. Ngược lại nếu tốc độ này thấp thì có thể là do doanh số cho vay giảm sút hoặc công tác thu nợ găp khó khăn. Điều đó cho thấy hiệu quả tín dụng của ngân hàng là không tốt.
Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là những khoản nợ khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc hết thời hạn vay vốn với thời gian được gia hạn thêm (nếu có) nhưng khách hàng vẫn chưa trả được nợ.Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình hình nợ quá hạn bao gồm :
Tỷ lệ Nợ quá hạn / Tổng dư Nợ :
Dư nợ quá hạn được xác định theo phân loại nợ do NHNN quy định, ngoại trừ các khoản nợ khoanh theo quyết định của Chính phủ và nợ tồn đọng cũ được xử lý theo Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 6/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Tỷ lệ nợ quá hạn càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao. Trong kinh doanh, rủi ro là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên nếu tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng nhỏ hơn 5% thì rất tốt. Nếu tỷ lệ này quá lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh vì nguy cơ mất vốn rất cao, làm mất khả năng thanh toán và thu nhập.
Tỷ lệ Nợ xấu / Tổng dư Nợ:
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam : tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Trong đó nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,5 theo quy định tại điều 6 và 7 theo quy định này.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng
Lãi suất:
Trong quan hệ tín dụng giữa DN và Ngân hàng, lãi suất cho vay phản ánh giá cả của đồng vốn mà người sử dụng vốn là các DN phải trả cho người cho vay là các NHTM. Nguồn thu về lãi suất cho vay là nguồn thu nhập nuôi sống hoạt động của Ngân hàng và theo bản năng, Ngân hàng nào cũng muốn cho vay lãi suất cao.
Lãi suất là một yếu tố rất quan trọng tác động đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, bất cư một sự thay đổi nào về lãi suất cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Năm 2008, lãi suất ngân hàng biến động rất lớn, ảnh hưởng nhiều tới hoạt động của các doanh nghiệp. Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Sau khi NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 12% và 14%/năm vào tháng 5 và 6 năm 2008 vừa qua, đã xuất hiện cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM, mà mở đầu là các NHTMCP nhỏ, buộc các NHTM lớn cũng phải theo nếu không muốn mất khách hàng, kéo theo một lượng vốn nhất định và BIDV cũng không phải là ngoại lệ. Lãi suất tăng cao để thu hút tiền về, kiềm chế tăng trưởng tín dụng nóng là rất cần thiết. Song cũng chính từ cuộc đua lãi suất của các NHTM vừa qua đã có tác động tiêu cực đối với thị trường tài chính, nền kinh tế và môi trường kinh doanh của chính các ngân hàng. Đối với các NHTM: chi phí huy động vốn cao, làm giảm khả năng sinh lời, khiến ngân hàng phải tăng cường nới rộng tín dụng, làm tăng khả năng rủi ro trong hoạt động. Đối với thị trường tài chính: lãi suất tiết kiệm càng cao, càng làm cho giá chứng khoán giảm xuống, huy động vốn của các doanh nghiêp trên thị trường tài chính càng khó khăn, gây áp lực lớn về vốn trung và dài hạn lên các NHTM. Còn đối với nền kinh tế: lãi suất huy động và cho vay ở mức cao, đã làm giảm đầu tư tư nhân, làm tăng chi phí vay mượn, và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế trở nên xấu hơn, vi mô tiếp tục bất ổn hơn, ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội. Như vậy, tăng lãi suất chỉ là biện pháp cấp bách trong ngắn hạn, một khi tăng lãi suất bắt đầu tỏ ra không hiệu quả xét cả ở khía cạnh vĩ mô và vi mô, thì việc duy trì lãi suất ổn định và theo xu hướng giảm dần ở những tháng còn lại của năm 2008 là tất yếu.
Lạm phát:
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM.
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Cấu trúc tổ chức:
Cấu trúc tổ chức cũng là một yếu tố tương đối quan trọng có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng vì hoạt động tín dụng không phải chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố lãi suất cho vay, mà điều quan trọng còn ở mật độ chi nhánh được mở rộng, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu an toàn, đội ngũ cán bộ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp . Một ngân hàng với cơ cấu tổ chức tốt, có sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động với nhau trong các khâu huy động vốn hay cho vay thì sẽ giúp cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đạt hiệu quả cao. Ngược lại, một cơ cấu tổ chức kém, nhiều thiếu sót thì cũng sẽ kéo theo hoạt động không tốt của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng và điều này sẽ dễ dẫn đến vấn đề hoạt động của ngân hàng kém hiệu quả.
Cụ thể SGD II – BIDV là một điển hình tiêu biểu, từ sau những thay đổi mô hình tổ chức theo đề án TA2, có sự phân tách nhiệm vụ và quyền hạn rõ rệt giữa các bộ phận, các phòng ban đã giúp cho hoạt động kinh doanh của Sở đã có những bước tiến rõ rệt
Vấn đề thông tin không hoàn hảo:
Niềm tin của khách hàng phải được xây dựng trên cơ sở thông tin minh bạch và kịp thời. Mọi sự tù mù sẽ là "đất" cho tin đồn lộng hành. Vì vậy mỗi ngân hàng cần phải minh bạch hoá thông (chính sách lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách khách hàng, tình hình nợ xấu...). Xây dựng hệ thống thông tin để hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, phân tích để đưa ra những quyết sách điều hành nhanh nhạy và khoa học.
Ngoài ra, hoạt động của các ngân hàng cũng có những “đặc thù” khác với các công ty. đó là: sự không rõ ràng của một số nguồn thông tin tài chính khiến khó đánh giá chất lượng hoạt động và rủi ro; sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý; độ rủi ro lớn, nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản; chịu sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe