Ngân hàng là một trong những kênh huy động và điều hòa nguồn vốn quan trọng trong nền kinh tế. Ngoài ra, Ngân hàng còn là một công cụ quan trọng trong việc ổn định thị trường tài chính và quản lý kinh tế của nhà nước. Đồng thời, Ngân hàng cũng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
Hiện nay, ngành ngân hàng nói chung và NHTMNN nói riêng đang hoạt động trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Ở Việt Nam, lộ trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới đã được khẳng định thông qua việc ký kết khu vực tự do thương mại AFTA, chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ASEAN ngày 28/7/1995, Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ ngày 13/7/2000 và đã được Quốc hội hai nước thông qua vào cuối năm 2001. Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia diễn đàn hợp tác Á- Âu (1996), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương APEC (1998), và gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cuối năm 2006. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, thời điểm hội nhập chính thức là vào năm 2008.
Ngoài bối cảnh hội nhập, các NHTMNN hiện nay đang hoạt động trong hoàn cảnh khó khăn cả về mặt cơ chế, chính sách lẫn thực lực bản thân yếu. Các hệ thống các quy định, luật lệ, các thủ tục hành chính, chính sách thuế . vẫn còn những bất hợp lý, thiếu rõ ràng, chặt chẽ đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, đáng chú ý là ở khu vực tư nhân. Ngoài ra, xét về mặt thực lực, bản thân hầu hết các NHTMNN yếu và thiếu khả năng phát triển mạnh các nghiệp vụ kinh doanh, đầu tư phát triển công nghệ, mở rộng địa bàn . dẫn tới kết quả cạnh tranh yếu kém.
Trong bối cảnh như thế, việc tìm hiểu năng lực cạnh tranh của Ngân hàng để từ đó đưa ra những bước đi phù hợp nhằm gia tăng hiệu quả, gia tăng tính cạnh tranh, nâng cao vị thế, qui mô của Ngân hàng trong quá trình hội nhập là một vấn đề cấp thiết đang đặt ra. Trên cơ sở đó, tôi đề xuất chuyên đề nghiên cứu là: “GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG NHNNo & PTNT CHI NHÁNH AN PHÚ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ LĨNH VỰC NGÂN HÀNG”
35 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh an phú trong quá trình hội nhập quốc tế về lĩnh vực ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý thuyết về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm không mới song nội hàm được xác định rất phong phú và thường gắn liền với những hoạt động cụ thể. Có một số cách tiếp cận về năng lực cạnh tranh như sau:
- Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng cạnh tranh của quốc gia, ngành và doanh nghiệp.
- Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) nêu: “Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt, duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”- (Theo WEF-1997). Đồng thời, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia WEF đã đưa ra một khuôn khổ các yếu tố xác định năng lực cạnh tranh tổng thể của một quốc gia và phân thành 8 nhóm chính, bao gồm 200 chỉ số khác nhau.
- Với cách tiếp cận về khả năng tạo ra việc làm, thu nhập, diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nêu: “ năng lực cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
- Tại Báo cáo về sức cạnh tranh quốc tế của Hoa Kỳ nêu: “ Năng lực cạnh tranh là năng lực của một công ty, một nước trong việc sản xuất ra của cải trên thị trường thế giới nhiều hơn đối thủ cạnh tranh của nó”.
- Từ điển thuật ngữ Chính sách thương mại của Trung Quốc nêu: “Năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm chí một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại về năng lực cạnh tranh kinh tế”.
- Tiếp cận dưới giác độ doanh nghiệp có các cách nêu về năng lực cạnh tranh như:
+ Theo lý thuyết thương mại truyền thống các nhà kinh tế xem xét năng lực cạnh tranh thông qua xem xét lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Vì các yếu tố sản xuất vẫn được coi là các điều kiện cơ bản nhất của lợi thế cạnh tranh.
+ UNCTAD thuộc Liên hiệp quốc cho rằng thuật ngữ sức cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu “ là năng lực của doanh nghiệp trong việc giữ vững hoặc tăng thị trường của mình một cách vững chắc, hoặc nó cũng có thể được định nghĩa là năng lực hạ giá thành hoặc cung cấp sản phẩm bền đẹp, rẻ của doanh nghiệp; hoặc nó còn được định nghĩa như định nghĩa thông thường là sức cạnh tranh bắt nguồn từ tỷ suất lợi nhuận”.
Trên cơ sở đó đi đến khái niệm về năng lực cạnh tranh: Là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua khả năng tạo lập, duy trì lợi nhuận và thị phần trên thị trường.
Đối với NHTM thì năng lực cạnh tranh mang tính đặc thù. Các sản phẩm của Ngân hàng mang tính đặc thù bởi sự quy định tính chất đặc biệt của hàng hóa mà Ngân hàng kinh doanh là tiền tệ. Song một khi coi Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, cho dù là doanh nghiệp đặc biệt thì việc xem xét năng lực cạnh tranh của NHTM cũng vẫn phải xem xét đến khả năng tối đa hóa lợi nhuận. Do đó có thể xác định:
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng tạo lập, duy trì lợi nhuận và thị phần trên cơ sở đa dạng và nâng cao chất lượng, tiện ích các dịnh vụ Tài chính Ngân hàng.
Các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của NHTM
- Chất lượng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là một yếu tố đặc biệt của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính chất đặc biệt đó được thể hiện ở chỗ đó là con người với các nhân tố tâm sinh lý, tình cảm, phẩm chất, đạo đức, niềm tin, khát vọng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ … do đó việc thu hút nguồn nhân lực, một yếu tố tố quan trọng có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại đối với chiến lược hoạt động của Ngân hàng. Điều đó buộc các Ngân hàng phải tính đến các nhân tố đó trong việc đưa ra các hình thức phong phú, đa dạng trong thu hút nguồn nhân lực để có được những nhân viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Ngoài các yếu tố về vật chất các Ngân hàng còn thực hiện các hình thức thu hút phi vật chất đối với người lao động. Có được một nguồn nhân lực tốt sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
- Năng lực Tài chính.
Năng lực Tài chính là yếu tố để gía tăng khả năng cạnh tranh của NHTM. Một NHTM có năng lực tốt về Tài chính sẽ dễ dàng chiếm được lòng tin của khách hàng. Một NHTM có sức mạnh về Tài chính sẽ dễ dàng hơn trong huy động vốn cũng như trong cho vay vốn và hiện đại hóa công nghệ của mình nhằm trở thành một Ngân hàng hiện đại. Chúng ta biết rằng, thông thường pháp luật các nước đưa ra các giới hạn về tăng qui mô tài sản cố định, tăng khối lượng cho vay tối đa đối với một khách hàng tương ứng với một tỷ lệ nào đó so với vốn điều lệ của một Ngân hàng. Trong những điều kiện như vậy thì sức mạnh Tài chính đóng vai trò không nhỏ đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM. Các quy định của Nhà nước cũng như sự nỗ lực của các NHTM là hướng tới nâng cao năng lực Tài chính của Ngân hàng.
- Tính đa dạng danh mục và chất lượng dịch vụ Tài chính.
Đa dạng hóa các dịch vụ Tài chính Ngân hàng là một trong những sự tranh đua gay gắt giữa các NHTM. Nhu cầu đòi hỏi được thoả mãn các tiện ích, an toàn các dịch vụ Tài chính từ Ngân hàng của khách hàng ngày càng gia tăng. Khách hàng sẽ có được quyền lựa chọn một khi có nhiều dịch vụ từ Ngân hàng. Những tiện ích có chất lượng cao từ dịch vụ Tài chính Ngân hàng cho phép Ngân hàng tạo được sự cuốn hút đối với khách hàng.
- Giá cả các sản phẩm dịch vụ Tài chính.
Giá cả trong kinh tế thị trường luôn là một trong những vũ khí được các doanh nghiệp cũng như NHTM sử dụng trong cạnh tranh. Lãi suất huy động và cho vay cũng như các khoản phí dịch vụ về Tài chính được các Ngân hàng tính toán kỹ trong chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng. Tuy có nhiều người có quan điểm cho rằng các NHTM không nên cạnh tranh bằng lãi suất, song giá cả trên thị trường vẫn là giá cả thị trường dưới sự tác động của các quy luật của thị trường thì khó có thể nói rằng cạnh tranh bằng lãi suất đối với các NHTM là không quan trọng. Trong xu thế toàn cầu hóa cạnh tranh về giá cả không những không giảm mà còn được sử dụng nhiều hơn với các hình thức phong phú hơn.
- Thông tin, công nghệ mới và mạng lưới Ngân hàng.
Năng lực cạnh tranh của các NHTM còn thể hiện ở khả năng mở rộng mạng lưới trên cơ sở thành lập các chi nhánh con hữu ích của mình. Mạng lưới với các chi nhánh hữu ích sẽ tạo ra nhiều cơ hội thu hút khách hàng trên một không gian rộng.
Nền kinh tế thông tin đã làm thay đổi nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh so với nền kinh tế công nghiệp truyền thống. Điện tử tin học đã làm thay đổi hoạt động Ngân hàng truyền thống. Các nghiệp vụ truyền thống được ứng dụng bởi những thành tựu của công nghệ thông tin đã mang lại sắc thái mới cho hoạt động Ngân hàng. Các dịch vụ Tài chính Ngân hàng được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn mang lại nhiều tiện ích cho cả khách hàng và Ngân hàng. Hoạt động của Ngân hàng hiện đại cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch, kết nối trực tuyến thông qua Internet mà không cần đến giao dịch trực tiếp với Ngân hàng đã có khả năng lớn trong việc thu hút khách hàng. Thông tin về Tài chính Ngân hàng đến với khách hàng nhanh chóng. Khách hàng có thể theo dõi tài sản của mình mọi lúc, mọi nơi mà không cần phải trực tiếp đến Ngân hàng do đó giảm thiểu sự đi lại và thời gian chờ đợi.
Việc ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động kinh doanh của các NHTM có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ Tài chính Ngân hàng. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp các NHTM có thể phát triển đa dạng hóa danh mục sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Các NHTM hướng tới xây dựng chiến lược quảng bá thông tin một cách đầy đủ nhất đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thông tin đa chiều cho phép tăng cường được khả năng thu hút khách hàng và cũng qua đó giữa Ngân hàng và khách hàng có sự hiểu biết rõ hơn về nhau, tăng cường sự hợp tác giữa khách hàng và Ngân hàng chính là lợi thế của Ngân hàng trong nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Chiến lược khách hàng, chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing Ngân hàng.
Chiến lược khách hàng, chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing Ngân hàng gắn bó mật thiết với nhau. NHTM có năng lực cạnh tranh tốt là Ngân hàng có được chiến lược khách hàng, chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing phù hợp. Những chiến lược khách hàng, chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing đòi hỏi phải phù hợp với các yếu tố nội lực của bản thân Ngân hàng như, năng lực Tài chính, nguồn nhân lực, công nghệ, … và phù hợp với các yếu tố bên ngoài như, môi trường hành chính, kinh tế, sức sản xuất và các yếu tố khác của thị trường. Các chiến lược khách hàng, chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing có vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của một NHTM. Do đó các chiến lược khách hàng, chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing thể hiện năng lực cạnh tranh của NHTM.
Tóm lại để có thể có năng lực cạnh tranh mang tính bền vững của một Ngân hàng còn phụ thuộc vào việc Ngân hàng có tạo ra được năng lực riêng biệt và triển khai những hoạt động chủ chốt của Ngân hàng như thế nào. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng còn phụ thuộc vào việc Ngân hàng nắm bắt các điều kiện của lợi thế cạnh tranh thông qua các yếu tố như tính có thể bắt chước như thế nào cho hiệu quả, tính thay thế sao cho không xáo trộn, tận dụng yếu tố khan hiếm như thế nào trong ngắn và dài hạn, khả năng thích ứng để tồn tại và phát triển.
Sự cần thiết của cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị trường.Chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội – yếu tố bảo đảm cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Mọi ngân hàng không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động để đứng được trong cơ chế này. Ngân hàng nào không thích nghi được cơ chế mới theo quy luật đào thải nó sẽ bị gạt ra khỏi thị trường. Thay vào đó, thị trường lại mở đường cho ngân hàng nào biết nắm thời cơ, biết phát huy tối đa những thế mạnh của mình và hạn chế tối thiểu những bất lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách mở cửa, hội nhấp kinh tế quốc tế, và đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, thì áp lực cạnh tranh nặng nề cho các NHTM Việt Nam càng gay gắt. Khi các ngân hàng chấp nhận cạnh tranh và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập hiện nay sẽ giúp cho NHTM thực hiện tốt hơn chức năng vai trò của mình đó là:
Phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng: NHTM thông qua các nghiệp vụ của mình cung cấp những dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội. NHTM làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán làm cho nhu cầu của khách hàng luôn được thỏa mãn.
Thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ: khi nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng xuất hiện sự đòi hỏi ra đời các sản phẩm mới, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ một số nước và một số NHTM về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bài học từ kinh nghiệm tạo lập môi trường cạnh tranh.
Cho đến nay nhờ có một môi trường cho hoạt động cạnh tranh mà Chính phủ và NHTW các nước tạo ra, đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trên thế giới. Với việc nghiên cứu kinh nghiệm cuả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, có hệ thống Ngân hàng hiện đại và qui mô hoạt động mang tính toàn cầu có thể rút ra bài học cho Chính phủ và NHTW về việc tạo môi trường cạnh tranh cho các NHTM Việt Nam như:
Tạo quyền chủ động , giảm bớt kiểm soát trực tiếp trong quyết định kinh doanh của các NHTM.
Trước đây Chính phủ các nước thường tham gia vào phân bổ tín dụng. Đến nay những nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều tạo quyền tự chủ cho các NHTM trong việc kinh doanh. Chính phủ hay NHTW các nước thường chỉ ban hành những luật lệ, qui định mang tính nguyên tắc, các NHTM được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định kinh doanh, đầu tư, cấp tín dụng. Kinh nghiệm này được rút ra từ kinh nghiệm hoạt động của các nước có nền kinh tế thị trường hiện đại như tại Mỹ, tại các nước Châu Âu, Châu Á; Mấy năm trở lại đây các nước có nền kinh tế tập trung chuyển đổi sang kinh tế thị trường như: Trung Quốc, Nga, Việt nam cũng đã thực hiện theo hướng này.
Việc sử dụng phương pháp này tránh được sự ỷ lại của các NHTM vào Nhà nước; buộc các NHTM tự nghiên cứu, tìm tòi chiến lược kinh doanh phù hợp với chất lượng, tự lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh có hiệu quả.
Tự do hoá thị trường Tài chính.
Tự do hoá thị trường Tài chính là một trong những điều kiện tiền đề cho quá trình hội nhập, hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như các nước khu vực Châu Âu, Nhật Bản, có nhiều kinh nghiệm trong quá trình hội nhập. Các nước đã thực hiện tự do hoá thị trường Tài chính nhằm tạo thuận lợi cho việc di chuyển các luồng vốn từ nước này sang nước khác bằng việc thả nổi các giao dịch ngoại hối; thả nổi lãi suất, lãi suất được xác định trên cơ sở cung cầu trên thị trường, Nhà nước chỉ tham gia với vai trò điều tiết vĩ mô mà không can thiệp trực tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ kết luận của một báo cáo của WB cho thấy “tự do hoá Tài chính cần phải tiến hành song song với các chính sách kinh tế vĩ mô, những cố gắng tự do hoá tài chính trước khi thực hiện những cải cách sẽ phải chịu tác động của các hiện tượng như: dòng vốn không ổn định, tỷ lệ lãi suất cao và công ty bị khốn đốn”.
Mở cửa hội nhập, thu hút vốn nước ngoài và tạo môi trường tự do cạnh tranh mở cửa thị trường.
Mở cửa thị trường cho các NHTM, định chế Tài chính Ngân hàng được tham gia kinh doanh tự do như các NHTM, định chế Tài chính trong nước là một biện pháp nhiều nước áp dụng.
Nhật bản không những thế mà còn tạo các điều kiện ưu đãi cho các NHTM, định chế Tài chính nước ngoài hơn các NHTM, định chế Tài chính trong nước. Với biện pháp như vậy tạo động lực thúc đẩy các Ngân hàng, định chế Tài chính trong nước hoạt động có hiệu quả và sát nhập với nhau để hình thành nên các tập đoàn Tài chính lớn. Kết quả đến nay Nhật Bản là một trong những nước có nhiều NHTM, tập đoàn Tài chính có tài sản lớn, tiềm lực Tài chính khá hùng mạnh trên thế giới.
Nhiều nước trên thế giới, ASEAN có Thái Lan cũng cho phép người nước ngoài sở hữu 100% cổ phiếu của các Ngân hàng .
Singapore, ngay từ những năm 1980 đã thành công trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Chính phủ Singapore đã không đi vay nợ mà ban hành chính sách mới, tạo môi trường hấp dẫn, kích thích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước.
Tuy nhiên nhiều quốc gia đã tránh sự xâm phạm quá nhanh của các Ngân hàng, định chế Tài chính vào thị trường trong nước gây cú sốc đối với NHTM trong nước, đã áp dụng các biện pháp hạn chế về địa lý cũng như xây dựng lộ trình hội nhập phù hợp.
Cho phép các Ngân hàng kinh doanh đa năng.
Từ năm 1996, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng, Nhật Bản đã thực hiện tự do hoá ngoại hối, cho phép các Ngân hàng được bảo lãnh phát hành, mua bán chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm, cho phép công ty chứng khoán mở tài khoản cho khách hàng, cho phép các Ngân hàng được kinh doanh, bán các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, môi giới chứng khoán và quản lý Quỹ đầu tư.
Nhật bản cũng cho phép các định chế Tài chính phi NH như: Sony Corp, Ito- Yokado thành lập mới các Ngân hàng.
Cổ phần hoá các NHTM Nhà nước.
“Việc cổ phần hoá các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước đã được nhiều nước thực hiện, gần đây nhất là một số nước như; Chi lê, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakintan, Hàn Quốc, Indonesia, Trung Quốc. Thông qua cổ phần hoá sẽ thúc đẩy các NHTM kinh doanh hiệu quả , giảm được gánh nặng cùa các Chính phủ đối với các NHTM” tháng 12/2003, Trung Quốc tuyên bố sẽ cổ phần hoá 2 NHTM Nhà nước hàng đầu của họ là Bank of China và Contrution Banh of China. Chính phủ Trung Quốc sẽ cấp bổ sung 45 Tỷ Nhân Dân tệ cho 2 Ngân hàng này sau đó tiếp tục cho phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn trên thị trường.
Hình thành các công ty mua bán nợ.
Để cho các NHTM thu hồi và tập trung vào kinh doanh, làm sạch bảng tổng kết tài sản đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều nuớc đã thành lập công ty mua bán nợ hoặc công ty quản lý tài sản có (AMC). Các Công ty này sẽ đứng ra mua hoặc quản lý các tài sản nợ khó đòi cho các NHTM.
Mô hình công ty mua bán nợ đã được hình thành ở nhiều nước. Khu vực Asian có Thái Lan và gần nhất là Trung Quốc đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản có của 4 NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, đến cuối năm 1999 các AMC đã mua 42,27 USD tỷ nợ khó đòi của 4 NHTM quốc Doanh bằng cách bán trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm, lãi suất 2,5%/năm.
Bán đấu giá nợ xấu cho Ngân hàng nước ngoài.
Để các NHTM thu hồi một phần vốn từ tài sản có không sinh lời, nâng cao tiềm lực Tài chính có thể bán phần tài sản đó cho các tập đoàn Tài chính, NHTM nước ngoài. Kinh nghiệm này rút ra từ trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc bên cạnh việc bỏ ra nguồn ngân sách để xử lý một phần nợ xấu, thì cũng cho phép bán đấu giá nợ xấu của một số NHTMNN. Khoản nợ xấu này chủ yếu là các khoản cho vay đầu tư bất động sản. Tập đoàn Tài chính Morgan Stanley cua Mỹ và Deutsche Bank của Đức mua số nợ xấu với giá 171 triệu (chỉ bằng 1/3 giá trị khoản nợ ban đầu).
Cho phép các tổ chức Tài chính nước ngoài mua cổ phần hạn chế trong một số NHTMNN.
Trung Quốc trong tiến trình cổ phần hoá các NHTMNN cho phép một số tập đoàn Tài chính nước ngoài mua cổ phần hạn chế tại một số NHTM sau cổ phần hoá. Năm2004, tập đoàn Tài chính và đầu tư Newbridge Capital (Mỹ) mua 150 triệu USD (chiếm18%) cổ phần của Ngân hàng Phát triển Thâm Quyến. HSBC mua 8% cổ phần của Ngân hàng Thượng Hải, một Ngân hàng lớn thứ 5 của Trung Quốc. Citibank mua 5% cổ phần của Ngân hàng Phổ Đông Thượng Hải.
Xoá bỏ những chi nhánh kinh doanh thua lỗ.
Đối với các NHTM, mục tiêu ban đầu của việc thành lập các chi nhánh nhằm thu hút thêm kháh hàng, phát triển thêm dịch vụ, mở rộng qui mô. Nhưng thực tế đã không diễn ra như dự kiến, các chi nhánh có thể sẽ không góp phần tạo ra lợi nhuận mà còn làm thua lỗ, giảm hiệu quả hoạt động của NHTM. Việc xoá bỏ những chi nhánh kinh doanh thua lỗ sẽ giúp NHTM tập trung nguồn lực vào những hoạt động có ích, có khả năng tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng.
Biện pháp này cũng áp dụng ở khá nhiều nước trong đó có Thái Lan. Thái lan sau khủng hoảng Tài chính 1997, đã đóng cửa hoặc sát nhập 70 Ngân hàng thành 6 nhóm Tài chính chủ yếu.
Mở chi nhánh đến các khu vực đang phát triển.
Việc mở cửa chi nhánh đến các khu vực đang phát triển là xu hướng ngược với việc xoá bỏ những chi nhánh kinh doanh thua lỗ. Một Ngân hàng có thể thực hiện theo cả 2 hướng ngược chiều này, nhờ có việc phát triển chính sách mà đến nay đả hình thành những tập đoàn Tài chính có mạng bước khắp toàn cầu như : Citibank, Morgan, Fujibank, Deuche bank… Việc phát triển chi nhánh đã tạo ra thị trường tiềm năng rộng lớn, mang tính toàn cầu NHTM, mặt khác cũng tránh rủi ro tập trung vào nền kinh tế.
Hỗ trợ các NHTM trong hoạt động và công nghệ.
Tại Indonesia Chính phủ hổ trợ đối với Ngân hàng nào hiện đại hóa công nghệ, do đó các NH này đã tập trung ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới, cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ. Đến nay chất lượng dịch vụ của nhiều Ngân hàng ở Indonesia được nâng cao. Cuối năm1997 Indonesia cũng ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng Tài chính ở Đông Nam Á, được sự hỗ trợ của các Chính phủ, các tổ chức Tài chính quốc tế và sự cố gắng của từng NHTM nên hệ thống Ngân hàng ở Indonesia trở lại hoạt động bình thường sau một thời gian ngắn.
Bài học từ kinh nghiệm của một số NHTM.
Từ những năm 70 của thế kỷ 21 một số tập đoàn Tài chính đã bắt đầu hình thành và đến nay đã thành những tập đoàn Tài chính khổng lồ trên thế giới, có tiềm lực Tài chính mạnh, có hệ thống mạng lưới và có khả năng thu hút khách hàng là những c