Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của thời đại, xu hướng này như một “vòng xoáy” lôi cuốn được hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Điều này sẽ ảnh hưởng tới tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động trong nước. Lĩnh vực nhạy cảm nhất và chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là lĩnh vực ngân hàng. Khi gia nhập WTO, nghĩa là phải thực hiện các cam kết song phương, đa phương, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng, không hạn chế việc cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng của các nhà cung cấp nước ngoài, tính cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ trở nên vô cùng khốc liệt. Với năng lực hạn chế như hiện nay, các ngân hàng Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro lớn, và gây ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Điều này đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để không những đứng vững mà ngày càng phát triển hơn. Đặc biệt với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) - một ngân hàng cổ phần lớn với mục tiêu là sẽ trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Từ những nhận thức như trên, đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi Việt Nam gia nhập WTO” được chọn nghiên cứu.
107 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của thời đại, xu hướng này như một “vòng xoáy” lôi cuốn được hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Điều này sẽ ảnh hưởng tới tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động trong nước. Lĩnh vực nhạy cảm nhất và chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là lĩnh vực ngân hàng. Khi gia nhập WTO, nghĩa là phải thực hiện các cam kết song phương, đa phương, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng, không hạn chế việc cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng của các nhà cung cấp nước ngoài, tính cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ trở nên vô cùng khốc liệt. Với năng lực hạn chế như hiện nay, các ngân hàng Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro lớn, và gây ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Điều này đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để không những đứng vững mà ngày càng phát triển hơn. Đặc biệt với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) - một ngân hàng cổ phần lớn với mục tiêu là sẽ trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam thì vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Từ những nhận thức như trên, đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi Việt Nam gia nhập WTO” được chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu.
Hệ thống hóa lý luận về năng lực cạnh tranh của NHTM khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở lý luận được hệ thống hóa, tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Techcombank nhằm đánh giá những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank.
3. Phạm vi và đối tượng của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là ngân hàng thương mại và các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Số liệu thu thập và phân tích của Techcombank trong giai đoạn từ 2005 – 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Dùng phương pháp điều tra, thu thập thông tin, thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp và hệ thống hóa để làm rõ các vấn đề nghiên cứu và đưa ra đánh giá cho luận văn.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Năng lực cạnh tranh của NHTM.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Techcombank.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Techcombank khi Việt Nam gia nhập WTO.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về cạnh tranh của NHTM.
1.1.1. NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM.
1.1.1.1. Khái niệm NHTM.
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành, các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Ngân hàng tài trợ cho Chính phủ để đầu tư phát triển và thực hiện các chính sách kinh tế mà chủ yếu là chính sách tiền tệ nhằm điều tiết nền kinh tế phát triển một cách ổn định. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng thương mại, có thể định nghĩa về ngân hàng thương mại trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp: “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với nhiều hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt động đó theo 3 nhóm hoạt động cơ bản, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn
và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính.
a. Hoạt động huy động vốn.
Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình thành dựa trên nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng các dịch vụ tài chính của ngân hàng. Nguồn vốn này có quy mô rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số nguồn vốn, sự vận động lại phức tạp nên việc sử dụng rất mạo hiểm, cần phải thận trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định sẽ được gửi vào ngân hàng sau một thời gian nhất định để hưởng lãi suất tương ứng với kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi suất tiền gửi thanh toán).
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời và an toàn.
Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ sung trong quá trình hoạt động. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.
Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải trả lãi, tuy nhiên chi phi để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví dụ như nguồn uỷ thác...
b. Hoạt động sử dụng vốn.
* Các hoạt động về ngân quỹ:
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại nộp vào tài khoản tại ngân hàng Nhà nước nhằm mục đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng thương mại, vận hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý hoạt động ngân hàng thương mại.
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền mặt tại quỹ, các khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của ngân hàng thương mại là tài sản không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song lại là tài khoản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được.
* Cho vay: là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc lẫn lãi. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài sản của ngân hàng. Có rất nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp ứng nhu cầu của dân cư hay các doanh nghiệp.
* Các hoạt động đầu tư: Ngân hàng nhường quyền sở hữu cho người khác dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ vốn góp. Có nhiều hình thức đầu tư: đầu tư vào chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư dưới dạng liên doanh với nhau để hình thành các ngân hàng liên doanh.
* Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài trợ cho sự phát triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
c. Cung cấp dịch vụ tài chính trung gian.
* Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng chuyển trả tiền cho một người nào đó.
* Thanh toán không dùng tiền mặt: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các hình thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán bù trừ, sec, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng thẻ...
* Cung cấp các dịch vụ tài chính:
Dịch vụ ủy thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý tài chính hộ. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính.
Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác...
1.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.1.2.1. Nội dung cạnh tranh giữa các NHTM.
Môi trường hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ những đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng và những ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh của NHTM có những đặc trưng riêng. Đó là:
Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau: Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính chất gay gắt trong cạnh tranh ngân hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là có tính tương đồng cao và rất dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ ngân hàng,... mà còn sử dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ, tinh thần, thỏi độ phục vụ khách hàng...
Bên cạnh đó, do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi nhu cầu, đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao, lại các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cùng cung cấp một hay một số sản phẩm, dịch vụ nhất định cho khách hàng. Vì vậy, để tránh đổ vì toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt, lại hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh, tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM phải cạnh tranh lành mạnh thông qua cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay lại nếu các ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền gửi, giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ, nới láng các điều kiện tín dụng... sẽ làm cho nguồn thu của các ngân hàng giảm sút, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì vậy, mặc dự cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn liên kết với nhau, có thể thoả thuận để giữ mặt bằng giá cả phù hợp, đảm bảo lợi ích chung.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan rất lớn. Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vì mang tính hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư… Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào, ngân hàng hoạt động và cạnh tranh với nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của luật pháp, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu của những đối tượng khách hàng cụ thể.
- Khách hàng của ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài ngân hàng. Với mỗi môi trường kinh doanh nhất định, điều kiện kinh tế nhất định, khu vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách phù hợp để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.
- Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế, sự giao thoa về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân hàng tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra thị trường các nước trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các NHTM trong nước phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự tác động của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá, lãi suất của các loại ngoại tệ liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của các nước… đều ảnh hưởng và tác động đến hoạt động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy, trong cạnh tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
1.1.2.2. Những công cụ cạnh tranh của NHTM.
Ngân hàng thương mại thực chất là một doanh nghiệp, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại là một tất yếu. Cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại thể hiện ở những khía cạnh như sau:
Gia tăng các sản phẩm dịch vụ mới tiện ích: Các sản phẩm dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền kinh tế.
Cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động nhất là phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại trong dân cư và cung cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở rộng phạm vi phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm cả các loại thẻ tín dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, nhất là những người có thu nhập khá, doanh nghiệp có đông người lao động, giới trẻ. Cũng với xu hướng đa dạng dịch vụ mới, các NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất, giá hàng xuất khẩu bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng.
Cải tiến hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Thị trường công nghệ ngân hàng đang hứa hẹn rộng mở và phát triển mạnh trong thời gian tới khi các ngân hàng trong nước đẩy mạnh phát triển các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công nghệ, nhằm tăng cường cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không ngần ngại bỏ ra hàng triệu đôla mua phần mềm của nước ngoài với các công nghệ mới để tăng sức cạnh tranh. Với thế mạnh vượt trội của các loại công nghệ sẽ tăng khả năng cung cấp các dịch vụ tiện ích cho người dân.
Nâng cao năng lực tài chính: Năng lực tài chính của NHTM được thể hiện rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay còn được gọi là vốn tự có. Vốn tự có là yếu tố quyết định sức mạnh tài chính của một NHMT, là “tấm nệm chống đỡ rủi ro“. Các ngân hàg thương mại đang chạy đua và tìm mọi cách để tăng vốn tự có nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và bảo vệ các ngân hàng thương mại trước những rủi ro, các chủ nợ (người gửi tiền).
1.2.2.3. Lợi ích của cạnh tranh giữa các NHTM.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại sẽ làm thu hẹp chênh lệch lãi suất cho huy động và cho vay; đa dạng hoá dịch vụ; tạo sức ép áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại… từ đó tạo ra các sản phẩm dịch vụ tiện ích với các chi phí đáp ứng với đòi hỏi của người tiêu dùng.
1.2. Năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh.
Theo Michael Porter, “Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn, hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”.
Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp và là doanh nghiệp đặc biệt vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là cạnh tranh trong nội bộ nghành. Từ những quan điểm trên, áp dụng đối với các ngân hàng thương mại thì các nhà nghiên cứu cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính.
a. Uy tín và thương hiệu của NHTM.
Uy tín và thương hiệu của ngân hàng là những dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm dịch vụ nào đó được cung cấp bởi một NHTM. Thương hiệu là một loại tài sản của NHTM, thường được cấu thành từ một cái tên, hay các chữ, các cụm từ, một logo, một biểu tượng, một hình ảnh hay sự kết hợp của các yếu tố trên. Uy tín và thương hiệu được thể hiện số năm hoạt động và chất lượng dịch vụ mà một NHTM cung cấp cho khách hàng. Một ngân hàng thương mại được gọi là có thương hiệu khi được nhiều khách hàng thừa nhận và đánh giá cao về chất lượng dịch vụ.
b. Năng lực công nghệ
Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động ATM… Công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo rủi ro… trong nội bộ ngân hàng. Khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ của các ngân hàng thương mại cũng là chỉ tiêu phản ánh năng lực công nghệ của một ngân hàng. Vì với tốc độ phát triển rất nhanh của ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ lĩnh vực ngân hàng nói riêng, nếu chỉ tập trung phân tích vào khả năng công nghệ hiện tại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi trong tương lai thì sẽ rất dễ có những nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ của các ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả năng mở (nghĩa là khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế.
c. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp cũng như ngân hàng nào. Năng lực cạnh của nguồn nhân lực của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp. Nhân sự của một ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi mới. Trình độ, hay kỹ năng của người lao động là những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực. Động cơ phấn đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực của mình hay không.
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và trình độ cao được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ lưu chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực. Quá trình tuyển dụng và đào tạo một chuyên viên ngân hàng thường rất tốn kém cả về thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc biệt là chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ nhân sự chất lượng cao của một ngân hàng.
d. Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức
Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc cũng như Hội đồng quản trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các n