Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoat động kinh doanh Nhập khẩu ở Công ty Máy và phụ tùng _ Machinoimport

Cùng với toàn thế giới tiến vào thiên niên kỷ mới, Việt Nam đã và đang chuyển mình trong công cuộc đổi mới toàn diện và đến nay cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, để sánh vai với các cường quốc năm châu thì tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta phải đạt từ 8-10%/năm liên tục trong vòng từ 10 đến 20 năm.

doc76 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoat động kinh doanh Nhập khẩu ở Công ty Máy và phụ tùng _ Machinoimport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Cùng với toàn thế giới tiến vào thiên niên kỷ mới, Việt Nam đã và đang chuyển mình trong công cuộc đổi mới toàn diện và đến nay cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, để sánh vai với các cường quốc năm châu thì tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta phải đạt từ 8-10%/năm liên tục trong vòng từ 10 đến 20 năm. Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy, cùng với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải thực hiện hàng loạt các biện pháp tổng hợp, trong đó nâng cao hiệu quả của công tác xuất nhập khẩu là một trong những biện pháp quan trọng nhất. Chính vì vậy, một lần nữa Đại hội Đảng IX lại khẳng định chiến lược ngoại thương trong thời gian tới là hướng về xuất khẩu, từng bước thay thế nhập khẩu. Trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, các công ty xuất nhập khẩu đã có nhiều cố gắng đổi mới để đáp ứng nhu cầu phát triển liên tục của nền kinh tế trong nước và hội nhập với thương mại trong khu vực cũng như trên thế giới. Trong suốt 50 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển, Machinoimport là một trong những doanh nghiệp lớn thuộc Bộ Thương mại, liên tục hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Với đặc thù kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, máy móc, thiết bị lẻ, nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế và công nghệ trong nhiều lĩnh vực như: xây dựng cơ bản, cung cấp năng lượng, giao thông vận tải, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng…Machinoimport đã trở nên quen thuộc với các bộ, các ngành các địa phương và chủ đầu tư trong cả nước. Trong thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu Máy và Phụ tùng (Machinoimport), với sự giúp đỡ của PGS. TS Phan Huy Đường các cô chú và các anh chị ở Công ty em đã chọn đề tài: Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoat động kinh doanh Nhập khẩu ở Công ty Máy và phụ tùng _ Machinoimport. Bài viết bao gồm 3 phần: Chương 1: Lý luận chung về kinh doanh nhập khẩu. Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty máy & phụ tùng_Machinoimport . Chương 3: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở tổng Công ty máy & phụ tùng. Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Phan Huy Đường đã giúp đỡ em nhiệt tình và cho em những ý kiến hết sức có ý nghĩa trong quá trình em thực hiện đề tài này. Em cũng xin cảm ơn các cô các chú, các anh chị ở phòng Kinh doanh trong Công ty Machinoimport đã hướng dẫn nghiệp vụ và cung cấp tài liệu. Cho dù em đã hết sức cố gắng song do điều kiện thời gian cũng như kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn. Chương I : lý luận chung về kinh doanh nhập khẩu. I>.Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá và sự cần thiết đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. 1.Khái niệm. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế được hình thành từ rất sớm, khoảng cuối thế kỷ 16. Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, do kinh tế tự nhiên còn chiếm vị trí thống trị, nên ngoại thương mới chỉ phát triển với quy mô nhỏ bé. Lưu thông hàng hoá mới chỉ dừng lại ở một phần nhỏ sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai cấp thống trị. Cho đến những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, lĩnh vực kinh doanh này mới có sự phát triển mạnh và lan toả trên toàn cầu. Trong những thập niên trước chỉ có các MNC (Multinational Company) đầu tư hàng tỷ USD để mua hoặc xây dựng công ty. Hầu hết đầu tư nước ngoài được thực hiện giữa các nước: Mỹ, EU, Nhật Bản với nhau. Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới đặc biệt là sự tác động ngày càng tăng của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đối với nền kinh tế của từng quốc gia và thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng đa dạng và trở thành một trong những nội dung cực kỳ quan trọng trong quan hệ kinh tế hiện đại. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh rất hấp dẫn, nó thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa nghệ thuật kinh doanh và các yếu tố khác của từng quốc gia như: yếu tố luật pháp, kinh tế, chính trị, văn hoá… Xuất nhập khẩu là những hoạt động cơ bản và quan trọng trong ngoại thương. Theo giáo trình "Kinh tế Ngoại thương" của GS.TS. Bùi Xuân Lưu, xét về đặc trưng thì ngoại thương được định nghĩa là việc mua, bán hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia. Trong hoạt động ngoại thương: xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài, nhập khẩu là việc mua hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài. Theo giáo trình "Kinh doanh quốc tế" của tập thể tác giả trường Kinh tế Quốc dân (Nhà xuất bản Bưu điện 10/2002) thì nhập khẩu là việc mua hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia, nhằm thoả mãn mục tiêu kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức đồng thời thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Các nhà kinh tế học còn dùng định nghĩa ngoại thương như là một công nghệ khác để sản xuất hàng hoá và dịch vụ (thậm chí cả các yếu tố sản xuất). Như vậy, ngoại thương được hiểu như là một quá trình sản xuất gián tiếp. Hoạt động nhập khẩu nói trên bao gồm các lĩnh vực chính như: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ ( nhập khẩu dịch vụ: tài chính, bảo hiểm, vận tải, bưu chính viễn thông…), đầu tư nước ngoài ( nhập khẩu vốn, công nghệ…),… Hoạt động xuất nhập khẩu giúp các quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, làm động lực cho sự phát triển góp phần cải thiện đời sống nhân dân, gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế quốc gia. Trong những điều kiện lịch sử mới, vấn đề "mở cửa"nền kinh tế đang trở nên cấp bách và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho các quốc gia trong quá trình đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện này, các quốc gia cũng đang phải đứng trước những thách thức mới như: phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt hơn diễn ra trên khu vực và toàn cầu thậm chí ngay cả trên thị trường nội địa, các rủi ro trong nền kinh tế thế giới đang là những sức ép rất lớn đối với từng quốc gia và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đứng trên góc độ một doanh nghiệp mà xét, để đạt được bất kì mục đích nào của mình doanh nghiệp cần phải cân nhắc lựa chọn hoạt động kinh doanh nhập khẩu nào cho phù hợp. Sự lựa chọn này phụ thuộc vào mục tiêu và thị trường mà doanh nghiệp đang hoạt động hoặc muốn thâm nhập vào. Các điều kiện môi trường kinh doanh quốc tế không chỉ ảnh hưởng đến các hình thức nhập khẩu, mà còn ảnh hưởng đến các chức năng hoạt động của doanh nghiệp như các chức năng: sản xuất, marketing, tài chính, kế toán…, ngược lại hoạt động của những doanh nghiệp này cũng có những tác động tích cực đến môi trường nhằm thích ứng với sự thay đổi của môi trường. 2>.Vai trò của nhập khẩu. Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. ở đây, nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, vừa tạo việc làm ổn định cho người lao động. Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho quá trình sản xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu. 3>. Sự cần thiết đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu hàng hoá. Loài người đã trải qua những ngày tháng cuối của thế kỷ XX và bước vào thế kỷ XXI đầy hứa hẹn. Đối với Việt Nam giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ, văn minh đúng như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định. Từ năm 1986 đến nay, chính sách đổi mới đã thực sự thổi một luồng gió mới vào kinh tế Việt Nam. Và sau gần 20 năm kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tưụ vô cùng to lớn. Việt Nam đã nhập được một số lượng đáng kể máy móc, thiết bị, phụ tùng cho các nghành công nghiệp nặng, năng lượng, hoá chất, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông...Tuy nhiên nhập khẩu chỉ phát huy tác dụng khi chiến lược nhập khẩu phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá sao cho các máy móc thiết bị, các công trình khoa học công nghệ vừa thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội đất nước vừa phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Việt Nam hiện nay cần nhập khẩu máy móc thiết bị với công nghệ ở nhiều trình độ khác nhau, kiên quyết không nhập công nghệ lạc hậu, không để Việt Nam trở thành bãi rác công nghiệp. Nhập khẩu máy và phụ tùng là một trong những phương tiện để phát triển khoa học kỹ thuật. Nhập khẩu máy và phụ tùng giúp ta tranh thủ được các thành tựu khoa học kỹ thuật tiến của thế giới mà ta chưa nghiên cứu được nhờ đó tiết kiệm được chi phí về vốn, thời gian và chất xám của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật mà nhiều khi chi phí bỏ ra cho hoạt động này rất lớn nhưng không mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, nhập khẩu máy và phụ tùng cũng góp phần vào việc chuyên môn hoá nghiên cứu khoa học cho những lĩnh vực mà nước ta có thế mạnh. Với mục đích là đạt đựơc trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại, nhập khẩu máy và phụ tùng tiên tiến sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Ngoài ra, nhập khẩu máy và phụ tùng còn góp phần phát triển các nhà máy lắp ráp, nâng cao hạ tầng cơ sở vật chất cho ngành công nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động giải quyết nạn thất nghiệp. Song song với việc nhập khẩu máy và phụ tùng hiện đại, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân nước ta sẽ tiếp thu được những kiến thức kỹ thuật mới. Điều này góp phần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong nước, dần đưa họ tiếp cận với thế giới khoa học hiện đại. Tuy mới chỉ trong một thời gian ngắn nhưng hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng đã phát huy được vai trò to lớn, đổi mới trang thiêt bị máy móc, tạo ra một thị trường hàng hoá phong phú, đa dạng từng bước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đã xuất khẩu được một số hàng hoá, nâng cao đời sống nhân dân. Điều này thúc đẩy Việt Nam nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại hơn, giúp nền kinh tế còn bỡ ngỡ trước làn sóng đổi mới, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Chính việc nhập khẩu này quay trở lại tác động đến nền sản xuất trong nước sản xuất ra hàng hoá có chất lượng tốt hơn, có tính cạnh tranh cao hơn và khả năng xuất khẩu hàng Việt nam được nâng cao. Thực tế đã chứng minh rõ ràng tính ưu việt cũng như khẳng định vai trò của hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. II>.Các phương thức nhập khẩu chủ yếu. 1>.Nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của mình. Bên uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và làm thủ tục nhập hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác. Bên nhận ủy thác sẽ được hưởng một phần thù lao được gọi là phí uỷ thác. 2>. Nhập khẩu trực tiếp. Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước và quốc tế, tính toán chính xác các chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, tuân thủ đúng chính sách, luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế. Trong hình thức này, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp làm các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng...và phải bỏ vốn để tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu. 3>. Nhập khẩu liên doanh. Nhập khẩu liên doanh là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó ít nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợi nhất cho tất cả các bên, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ. 4>.Nhập khẩu hàng đổi hàng. Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, đó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Thanh toán cho hoạt động này không dùng tiền mà là hàng hóa. Mục đích của nhập khẩu hàng đổi hàng là vừa thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vừa xuất khẩu được hàng hoá trong nước ra nước ngoài. 5>. Nhập khẩu tái xuất. Hoạt động nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba để thu lợi nhuận, những mặt hàng này không được qua chế biến ở nơi tái xuất. Như vậy trong hình thức này có sự tham gia của ít nhất ba quốc gia: nước xuất khẩu hàng hóa, nước nhập khẩu hàng hoá để tái xuất, nước nhập khẩu hàng đã được tái xuất. 6>.Nhập khẩu hàng hoá. Nói đến thương mại quốc tế không thể không nói đến xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ vì đây là nội dung quan trọng và cốt lõi của nó. Kinh doanh nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Nếu như trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán trao đổi hàng hoá-tiền tệ diễn ra theo hai chiều thì trong nhập khẩu sự vận động của hàng hóa-tiền tệ chỉ diễn ra theo một chiều: hàng vào-tiền ra. Tuy vậy, nó là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế, không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp, có tổ chức. Những quy định và luật lệ ràng buộc người mua và kẻ bán nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế bằng cách thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước, nhất là những loại hàng hoá mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu người tịêu dùng. 7>.Nhập khẩu vật tư thiết bị. Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận chuyển giao công nghệ, kể cả thiết bị theo con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương thức đón đầu. Nhập phảỉ có chọn lọc, tránh nhập những loại thiết bị, công nghệ lạc hậu các nước đang tìm cách thảI ra. Nhất thiết không vì mục tiêu tiết kiệm mà nhập các thiết bị cũ, chưa dùng được bao lâu, chưa đủ sinh lợi đã phải thay thế. III>. Nội dung hoạt động nhập khẩu. 1>.Nghiên cứu thị trường. 1.1>. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu. Nhận biết mặt hàng để nhập khẩu trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về quy cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Phải hiểu rõ giá trị, công dụng các đặc tính của hàng hoá, từ đó xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế giới về quy cách, phẩm chất, mẫu mã. Đối với các doanh nghiệp sản xuất vật tư phục vụ sản xuất, điểm đầu tiên để xác định mặt hàng là dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, dựa trên chất lượng sản phẩm hàng hoá. Nắm bắt đầy đủ các mức giá cho từng điều kiện mua bán, kả năng sản xuất và nguồn cung ứng dịch vụ đi kèm bảo đảm cho hàng hóa như: bảo hành, sửa chữa, cung ứng các thiết bị phụ tùng thay thế.. Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một số nhân tố quan trọng là phải tinh đợc tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu của mặt hàng đó. Nếu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu cao hơn tỷ giấ hối đoái trên thị trường thế giới thì việc lựa chọn mặt hàng là có hiệu quả. Ngoài ra nhà nhập khẩu còn phải dựa vào những kinh nghiệm ngoài thị trường để có thể dự đoán được các biến động trong thị trường nước ngoài cũng như trong nước và khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện mua bán có ưu thế hơn. 1.2>. Nghiên cứu dung lượng thị trường Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi một thị trường nhất định trong một phạm vi nhất định. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần phải xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm, các vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc điểm nhu cầu trong từng thời điểm, từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu, việc nắm bắt khả năng cung cấp cho thị trường phải xét đến đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng hoá thay thế, khả năng lựa chọn trong việc mua sắm để thoả mãn nhu cầu. Một vấn đề cũng được quan tâm trong khâu này là tính thời vụ của sản xuất(cung) và tiêu dùng(cầu) hàng hoá đó trên thị trường thế giới để có biện pháp thích hợp cho từng giai đoạn, bảo đảm nhập khẩu có hiệu quả. Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có thể chia làm 3 loại căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của chúng đối với thị trường. 1.3>. Lựa chọn đối tác. Xét về tính chất và mục đích hoạt động, khách hàng trong thương mại quốc tế được chia làm 3 loại: Các hãng hay công ty. Các liên đoàn kinh doanh. Các cơ quan nhà nước. Đối tượng giao dịch rất quan trọng trong kinh doanh nhập khẩu, việc lưa chọn phải tiến hành một cách cẩn thận, kỹ lưỡng nhất là trong điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng, thông tin nhanh nhạy từ nhiều nguồn...Thường khi lựa chọn đối tác giao dịch, người ta dựa trên những cơ sở sau: Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh, khả năng cung cấp hàng hoá lâu dài, thường xuyên, kịp thời. Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Thái độ và quan điểm kinh doanh của doanh nghiệp( chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền, những quan điểm về mua bán với bạn hàng). Uy tín của doanh nghiệp đó trong kinh doanh. Trong lựa chọn đối tác giao dịch tốt hơn hết là nên chọn đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian trừ khi doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động kinh doanh trong thương mại quốc tế. 1.4>. Xác định nhu cầu cụ thể về lượng hàng hoá cần nhập. Doanh nghiệp thường xác định lượng hàng hoá nhập tối ưu dựa trên cơ sở tối ưu hoá về giá trị sử dụng và gía trị tức là hàng hoá vừa có chất lượng tốt vừa có giá phải chăng. Như đã biết nếu xét về chi phí vận chuyển, lượng hàng đặt mua một lần lớn thì chi phí thu mua vận chuyển tính cho một đơn vị hàng càng ít và ngược lại. Nhưng lượng hàng đặt mua một lần càng lớn thì chi phí bảo quản lô hàng đó càng cao. Vì thế, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là đặt mua bao nhiêu hàng một lần để tối ưu chi phí vận chuyển và chi phí bảo quản lô hàng đó? Để trả lời câu hỏi này, các nhà kinh tế đã đưa ra công thức tính lượng đặt hàng tối ưu như sau: Gọi N là nhu cầu nhập khẩu hàng hoá hàng năm. D là lượng đặt hàng của mỗi đơn hàng. C là toàn bộ chi phí cho lô hàng. C1 là phần chi phí vận chuyển cố định cho lô hàng đặt mua. C2 là chi phí bảo quản một đơn vị hàng lưu kho trong một năm. Ta có: N D C = C1 * +
Tài liệu liên quan