Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới

Công cuộc đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt Nam diễn ra trong lúc toàn cầu hoá và khu vực hoá, đang trở thành một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Do vậy, các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phát triển nền kinh tế của mình song song với việc tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới

doc74 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Công cuộc đổi mới kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Việt Nam diễn ra trong lúc toàn cầu hoá và khu vực hoá, đang trở thành một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Do vậy, các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng phát triển nền kinh tế của mình song song với việc tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII và IX tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế, từng bước chuyển từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, quyết tâm thực hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá hướng mạnh vào xuất khẩu, phục vụ cho phát triển kinh tế và hội nhập thế giới. Trước sự đảo lộn của thị trường truyền thống đầu những năm 90, ngoại thương Việt Nam đã có những bước chuyển căn bản, kịp thời và hiệu quả. Tính đến cuối năm 2001, nước ta đã có quan hệ buôn bán với 176 nước và vùng lãnh thổ, đã kí kết hiệp định thương mại với 66 nước và thoả thuận ưu đãi thuế quan MFN với 77 nước, trong đó có nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ , Nhật bản, Trung Quốc và EU. Đặc biệt, Việt Nam đã kí kết và phê chuẩn hiệp định thương mại với Mỹ, mở đường vào thị trường rộng lớn nhất thế giới này và cho việc gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc mở rộng quan hệ thương mại với EU là một trong những mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, nhằm đưa ngoại thương Việt Nam ra khỏi tình trạng hụt hẫng do mất thị trường truyền thống. Nhờ vậy, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có những bước chuyển biến tích cực, mở ra cục diện mới cho nền kinh tế trong điều kiện hội nhập khu vực và trên thế giới. Việt Nam bình thường hoá quan hệ ngoại giao với EU (22/10/1990). Đặc biệt việc kí kết Hiệp định buôn bán hàng dệt may (15/12/1992) và Hiệp định hợp tác với EU (17/7/1995), đã nâng mối quan hệ Việt Nam - EU lên một tầm cao mới. Nhằm khôi phục và mở rộng thị trường do khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực; thị trường SNG chưa phục hồi được; thị trường Mỹ vừa mới hé mở, thì việc lựa chọn thị trường EU là rất hợp lí để đảm bảo sự tăng trưởng xuất khẩu cũng như thúc đẩy sản xuất hàng hoá của Việt Nam. Hiện nay, EU là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, chiếm 20% thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang các nước khác. Dựa vào những lợi thế tương đối, Việt Nam chủ trương xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như nông lâm thuỷ sản, hàng dệt may, giày da… sang thị trường này. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường EU. Đây sẽ là một thị trường nhập khẩu đầy tiềm năng cho ngành thuỷ sản Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Ngoài những thành tựu đạt được trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản sang EU thì vẫn tồn tại những hạn chế, đòi hỏi Việt Nam cần phải nỗ lực cố gắng trong sản xuất nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Với vốn kiến thức có hạn của một sinh viên sắp ra trường, thông qua phương pháp phân tích, tổng hợp và các phương pháp khác, luận văn chỉ đề cập đến xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua nhằm đưa ra một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới. Trong luận văn, em có tham khảo một số ý kiến của các tác giả và một số sách báo, tạp chí có liên quan đến vấn đề này để nội dung đề tài thêm phong phú. Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương như sau: -Chương một: Vị trí, vai trò của xuất khẩu thuỷ sản trong sự phát triển kinh tế Việt Nam. -Chương hai: Thực trạng và triển vọng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian gần đây. -Chương ba: Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang EU trong thời gian tới. Vì chưa có điều kiện đi sâu vào thực tế và khảo sát thực tiễn nên kết quả đề tài chắc chắn còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Tiến sĩ Đinh Công Tuấn và các thầy cô trong khoa Quan hệ Quốc tế đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành bài khoá luận này. Chương I Vị trí, vai trò của xuất khẩu thuỷ sản trong sự phát triển kinh tế Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng tài nguyên biển phong phú về dầu khí, thuỷ sản, dịch vụ, hàng hải, du lịch… Đặc biệt, thuỷ sản ngày càng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Bước sang thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp thuỷ sản không còn được bao cấp nữa trong khi bị mất đi thị trường truyền thống là các nước xã hội chủ nghĩa. Lúc này, những yếu kém của các doanh nghiệp trong ngành càng ngày càng bộc lộ rõ. Công nghệ lạc hậu, sản phẩm chủ yếu ở dạng sơ chế, xuất khẩu lệ thuộc chủ yếu vào thị trường Nhật bản… Kinh tế thế giới ngày nay đã đạt đến sự phát triển cao dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và chịu ảnh hưởng không nhỏ của xuất khẩu. Trên con đường đổi mới kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt được xu thế phát triển khách quan này. Từ đó Việt Nam nhận thức được những tiềm năng quí giá của đất nước chính là yếu tố quan trọng để góp phần phát triển kinh tế và sớm đưa Việt Nam hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được mục đích này, Đảng và nhà nước cùng các cơ quan hữu quan đã đề ra những chính sách, biện pháp nhằm thúc đẩy ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển, tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. I. Tổng quan về ngành thuỷ sản Việt Nam. 1. Nguồn lợi thuỷ sản. Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa Đông Nam Châu á, có bờ biển dài hơn 3260 km từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) trải qua 13 vĩ độ, từ 8023’ Bắc đến 21039’ Bắc. Diện tích vùng nội thủy và lãnh hải rộng trên 1 triệu km2. Trong vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo, trong đó có nhiều đảo lớn, có cư dân sinh sống như Côtô, Cát Bà, Hòn Mê, Phú Quốc, Côn Đảo… là những nơi có tiềm năng phát triển du lịch. Đồng thời, các đảo này sẽ trở thành một tuyến căn cứ cung cấp các dịch vụ hậu cần cho việc khai thác hải sản và làm nơi trú đậu cho tàu thuyền trong mùa mưa bão. Biển Việt Nam còn có nhiều Vịnh, đầm phá, cửa sông… như Vịnh Hạ Long, phá Tam Giang… và trên 4000 ha rừng ngập mặn. Đó là những khu vực đầy tiềm năng cho việc phát triển giao thông, du lịch đồng thời cũng thuận lợi cho việc triển khai nuôi trồng thuỷ sản. Biển Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị kinh tế cao. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển của toàn vùng biển là 4,2 triệu tấn. Trong đó, sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850 nghìn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương. Ngoài cá biển, Việt Nam còn có nhiều nguồn lợi tự nhiên khác như trên 1600 loài giáp xác, sản lượng cho phép khai thác 50-60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm hùm, tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc, cho phép khai thác 60-70 nghìn tấn/năm. Hàng năm, biển còn có thể cho phép khai thác từ 45-50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế như rong câu, rong mơ. Bên cạnh đó, rất nhiều loài đặc sản quí như bào ngư, đồi mồi,vích, tổ yến, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai… Theo vùng và theo độ sâu, nguồn lợi cá cũng khác nhau. Vùng biển Đông Nam Bộ cho phép khả năng khai thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai thác của cả nước, tiếp đó là vịnh Bắc Bộ 16,0%, biển miền Trung 14,3%, Tây Nam Bộ 11,9%, các gò nổi 0,15%, cá nổi đại dương 7,1%. 2. Vài nét về ngành thuỷ sản Việt Nam. Việc khai thác các nguồn lợi thuỷ sản để phục vụ những nhu cầu đa dạng của con người như: thực phẩm, đồ trang sức, thuốc… đã có từ lâu đời cùng với sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Tuy vậy, trải qua hàng nghìn năm, nghề cá Việt Nam vẫn mang nặng nét đặc trưng của một nền sản xuất tự cung tự cấp và chỉ đóng vai trò một nghề phụ cho dân cư. Mãi cho đến nửa đầu của thế kỉ này, nghề cá vẫn hết sức thô sơ, lạc hậu và chưa được xem như một ngành kinh tế độc lập. Đến ngày 5 tháng 10 năm 1961, chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ban hành nghị định 150 CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổng cục thuỷ sản. Đây là thời điểm ra đời của ngành thuỷ sản Việt Nam, được xem như một chính thể ngành kinh tế - kĩ thuật của đất nước, phát triển một cách toàn diện về khai thác, nuôi trồng, hậu cần dịch vụ, chế biến, nghiên cứu khoa học và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển. Từ khi thành lập cơ quan quản lí nhà nước đầu tiên của ngành và cũng chính là thời điểm ra đời của một ngành kinh tế - kĩ thuật mới của đất nước, đến năm 2003, ngành thuỷ sản đã đi qua chặng đường hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành. Đó là chặng đường dài với nhiều biến động và thăng trầm. Ngành thuỷ sản Việt Nam có thể chia thành hai thời kì chính: Thời kì thứ nhất, trước những năm 1980, ngành thuỷ sản Việt Nam về cơ bản vẫn là một ngành kinh tế tự cấp. Hình thức khai thác những tiềm năng sẵn có của thiên nhiên theo kiểu “hái lượm”. Cơ chế quản lí kế hoạch hoá tập trung kéo dài, tiêu thụ theo cách giao nộp sản phẩm khiến chúng ta quen đánh giá thành tích theo tấn, tạ hay bất kể giá trị nào. Điều này dẫn tới sự suy kiệt của các động lực thúc đẩy sản xuất, đưa ngành tới bờ vực suy thoái vào cuối những năm 70. Năm Tổng sản lượng thuỷ sản (tấn) Sản lượng khai thác(tấn) Sản lượng nuôi trồng (tấn) Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Tổng số tàu thuyền (chiếc) Diện tích nuôi trồng (ha) Số lao động (triệu người) 1991 1.019.000 709.000 310.000 205.000 72.723 491.723 1.860 1992 1.062.163 714.910 347.910 262.234 72.043 489.833 2.100 1993 1.097.830 746.570 351.260 305.630 83.972 577.538 2.350 1994 1.116.169 793.324 368.604 368.435 93.147 600.000 2.570 1995 1.211.496 878.474 333.022 458.200 93.672 576.000 2.810 1996 1.344.140 928.500 415.280 550.100 95.700 581.000 3.030 1997 1.373.500 962.500 411.000 670.000 97.700 585.000 3.120 1998 1.570.000 1.062.000 481.000 776.000 71.500 600.000 1999 1.668.530 1.130.660 537.870 858.600 71.799 626.330 2000 1.827.310 1.212.000 614.510 971.120 73.397 630.000 Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ thuỷ sản Thời kì thứ hai, từ những năm 80 đến nay, được mở đầu bằng chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu và thử nghiệm cơ chế “tự cân đối, tự trang trải”. Thực chất là chú trọng nâng cao giá trị của sản phẩm làm ra, nhằm tạo nguồn đẩu tư, nhằm tạo ra nguồn đẩu tư để tái tạo sản xuất mở rộng đã tạo nguồn động lực mới cho sự phát triển. Ngành thuỷ sản có thể coi là một trong những ngành tiên phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong quá trình đó, từ nghề sản xuất có quy mô nhỏ, ngành đã có vị thế xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Đến năm 1994, ngành đã được Đảng và nhà nước ta chính thức xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Tổng sản lượng thuỷ sản đã vượt qua ngưỡng 1 triệu tấn trong năm 1991 . Đặc biệt, nước ta đã đứng vào hàng ngũ những nước có sản lượng khai thác hải sản trên 1 triệu tấn kể từ năm 1998. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã vượt mức 500 triệu USD năm 1996 và tiến tới hai tỷ USD vào năm 2003. So với năm 1980, đến năm 2000, tổng sản lượng tăng gấp 4 lần, còn giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng tới 90 lần. II. Vị trí, vai trò của ngành thuỷ sản nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng trong nền kinh tế Việt Nam. 1. Ngành thuỷ sản với vấn đề tăng trưởng kinh tế Thuỷ sản được coi là một ngành hàng thiết yếu và được ưa chuộng ở khắp nơi trên thế giới. Với vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ưu đãi, ngành thuỷ sản Việt Nam tăng cường khai thác và nuôi trồng thuỷ sản nhưng cũng cần phải có những chính sách khai thác hợp lí. Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên rộng lớn, ngành thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội. Nhất là trong hơn 15 năm qua, với mật độ phát triển kinh tế nhanh chóng cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu, ngành kinh tế thuỷ sản ngày càng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Đồng thời, đó cũng là một trong những hướng ưu tiên của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Các kết quả cho thấy, nghề đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ công ăn việc làm ở vùng nông thôn, vùng biển. Nó cũng chứng minh tiềm năng của ngành thuỷ sản, đóng góp cho thu nhập ngoại tệ và thương mại quốc tế của Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ thuỷ sản, trong khoảng hơn 10 năm qua, lao động thuỷ sản cũng đã tăng gấp 10 lần, từ 380 nghìn người vào năm 1980 lên 3.350 nghìn người vào năm 1990. Năm 2000 với tổng sản lượng 1.827.310 tấn thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu đạt 971,1 triệu USD. Những năm qua là thời kì tăng trưởng liên tục của ngành thuỷ sản trên mọi mặt. Ngoài các hoạt động đầu tư, đổi mới quản lí nhằm tạo ra sản phẩm bắt kịp với yêu cầu của các thị trường nhập khẩu, Bộ thuỷ sản đã cùng các doanh nghiệp đổi mới các hoạt động, xúc tiến thương mại, tiếp thị. Ngành đã chủ động tổ chức đoàn doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng, tham gia các hội chợ quốc tế về thuỷ sản để giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác. Bằng cách đó, ngành thuỷ sản Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ngay cả thời kì khó khăn nhất như thời kì khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 cũng đạt mức 10%. GDP và các thành phần trong năm 2001 Các lĩnh vực kinh tế Tỉ lệ trong GDP Mức đóng góp (triệu USD) Nông nghiệp (kể cả thuỷ sản) 24,3 70,9 Công nghiệp, xây dựng 36,6 100,3 Dịch vụ 39,1 120,9 GDP 100,0 300,1 Nguồn: Bộ thương mại, Tổng cục thống kê Ngành thuỷ sản thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp 7% tổng GDP, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản chiếm 9 - 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Dự tính, năm 2020, ngành thuỷ sản sẽ thu hút 4,4 triệu lao động trong cả nước. Nếu trong GDP, ngành đóng góp còn ở mức độ khiêm tốn thì có sự bù đắp bởi việc đóng góp mạnh mẽ vào nền xuất khẩu cả nước. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là 1,479 tỷ USD, chiếm 10,24% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô 3, 501 tỷ USD và dệt may 1, 892 tỷ USD. Các nhà máy thuộc ngành thuỷ sản nằm trong danh sách đầu tiên được hưởng lợi ích đầy đủ khi chính phủ cho phép thực hiện tự do hoá các xí nghiệp nhà nước. Điều này có tác động tích cực tới việc hình thành một ngành xuất khẩu thuỷ sản năng động nhất của Việt Nam. Theo báo cáo của Thứ trưởng Bộ thuỷ sản Nguyễn Thị Hồng Minh cho biết: “ năm 2002, ngành thuỷ sản đạt được thành tựu nổi bật, các chỉ tiêu đều vượt kế hoạch. Tổng sản lượng đạt 2.410.900 tấn bằng 104,82% kế hoạch và tăng 5,4% so với 2001.Trong đó, sản lượng khai thác đạt 1.434.800 tấn, bằng 106,28% kế hoạch sản lượng nuôi trồng thuỷ sản và khai thác nội địa đạt 976.100 tấn bằng 102,75% kế hoạch và tăng 9,47%so với 2001. Xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục tăng trưởng vượt mức 2 tỷ USD, đạt 2.021 triệu USD, bằng 101,05% kế hoạch và tăng 13,07% so với2001. Điều này càng khẳng định vị trí mũi nhọn của thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân. 2. Ngành thuỷ sản với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nhìn lại chặng đường phát triển của ngành thuỷ sản trong thời gian qua, ngoài sự tăng trưởng đánh dấu bằng những con số nêu trên, sự biến đổi về chất có tác động mạnh mẽ tới sự lớn mạnh của ngành trong quá trình hình thành và phát triển. Nghề đánh bắt và khai thác thuỷ sản ban đầu chỉ tự cung, tự cấp nhưng đến nay đã được nhà nước hỗ trợ để trở thành một ngành kinh tế chủ lực, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế đất nước. Trong đó, các đặc sản xuất khẩu cũng được xác định là đối tượng chủ yếu để phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản sẽ góp phần làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho nhân dân, góp phần xây dựng trật tự xã hội, an ninh vùng biển, biên giới. Công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông lạnh, cho đến nay toàn ngành đã có trên 320 nhà máy chế biến công nghiệp. Công suất chế biến theo thiết kế vào khoảng 1000 tấn thành phẩm mỗi ngày, tăng gấp 2,5 lần về số lượng nhà máy và gấp 3 lần về công suất so với nam 2000. Đặc biệt, đến nay đã có 68 doanh ngiệp được EU cấp code(mã số) xuất khẩu và 75 nhà máy được công nhận áp dụng HACCP(Phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn) vào thị trường EU và Mỹ. Đây là sự tiến bộ to lớn so với những năm trước đây không có nhà máy nào đáp ứng yêu cầu này. Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ cho nghành thuỷ sản đã được xây dựng và áp dụng trong hơn15 năm qua. Đó là kĩ thuật sinh sản nhân tạo để tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hơn 1 tỷ con giống các cỡ. Trong đánh bắt dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ. Hoạt động hợp tác quốc tế bao gồm: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ đều đạt kết quả khích lệ. Từ cơ chế lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng qua thời kì nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, đến nay, sản phẩm thuỷ sản của nước ta đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới, có uy tín ở một số thị trường khó tính. 3.Nghành thuỷ sản với vấn đề xã hội Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải thiện mức sống của ngư dân, xoá đói giảm nghèo, tạo sinh kế cho cộng đồng dân cư. Đặc biệt, các tài nguyên thuỷ sản, môi trường biển và vùng ven biển của đất nước có tầm quan trọng đối với hàng triệu người dân nông thôn, nhất là với hơn 17 triệu người dân sống ở vùng ven biển và đảo ven bờ Tăng sự đóng góp của ngành thuỷ sản vào sự phát triển kinh tế, xã hội bao gồm ổn định xã hội và an ninh quốc gia. Cải thiện tiêu chuẩn dinh dưỡng của nhân dân, ăng xuất khẩu sang các thị trường trên thế giới và thu ngoại tệ cho đất nước. Đẩy mạnh hiện đại hoá và công nghiệp hoá ngành thuỷ sản. Hiện nay, dân số Việt Nam có khoảng 78 triệu người, trong đó có khoảng 62,4 triệu người, chiếm 80% số người sống ở nông thôn và 15,6 triệu người chiếm 20% sống ở thành thị. Lao động nghề cá. Đơn vị: 1000 người. Năm 1987 1991 1996 1997 1998 1999 2001 2002 Số lao động 1.270 1.860 3.030 3.120 3.210 3.320 3.450 3.550 Nguồn: T/C Thông tin khoa học và công nghiệp thuỷ sản - số 3/2002. Với hơn 3 triệu người lao động trong toàn ngành chiếm 10% tổng số lao động xã hội, lao động nghề cá nhiều nhất là nuôi trồng thuỷ sản có 2.219.400 người, đánh bắt 435.000 người, chế biến 250.000 người. Số lao động sống phụ thuộc vào ngành thuỷ sản ngày càng tăng. Năm 1999 tăng thêm 2050 người tức bằng 261,41% so với 1987. Dân số nước ta ngày càng đông thì đây là một ngành quan trọng thu hút được nhiều lao động nhất, giảm bớt thất nghiệp cho đất nước còn nghèo và lạc hậu như Việt Nam. Sự đóng góp của ngành thuỷ sản với mục tiêu dinh dưỡng quốc gia cũng được tăng lên. Việc cung cấp cá và các sản phẩm thuỷ sản cả nước tăng từ mức 11,5 kg năm 1999 lên 13,5 kg/người năm 2001. Mức tăng trưởng này có tính đến nhu cầu dinh dưỡng của số dân tăng. Việc đẩy mạnh hiện đại hoá và công nghiệp hoá nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản sẽ tăng cường năng lực của ngành này. Bằng cách đó sẽ tăng sự đóng góp của ngành đối với xã hội. Hiện đại hoá và công nghiệp hoá sẽ giúp thiết lập các ngành công nghiệp mới và những ngành công nghiệp đã hoàn thiện tại các vùng ven biển mà sẽ nâng cao vai trò của ngành thuỷ sản đối với việc phát triển kinh tế – xã hội. III. Chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đối với ngành thuỷ sản và xuất khẩu thuỷ sản. Thực hiện tiến trình đổi mới, bằng nỗ lực to lớn, Việt Nam đã phấn đấu vươn lên thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trở thành thành viên tích cực ở khu vực Đông Nam á và trong cộng đồng quốc tế. Nhiệm vụ đặt ra cho chương trình phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng ta là mở rộng thị trường, đổi mới cơ cấu
Tài liệu liên quan