Theo chủ trương của Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đất nước ta đã tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở phát triển nền kinh tế hoàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cùng với chủ trương đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã không ngừng phát triển với quy mô ngày càng lớn. Loại hình doanh nghiệp này rất linh hoạt và thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi về cung - cầu trên thị trường và đóng góp một tỷ trọng ngày càng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của quốc gia
64 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh tại Tổng công ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Theo chủ trương của Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đất nước ta đã tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở phát triển nền kinh tế hoàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cùng với chủ trương đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã không ngừng phát triển với quy mô ngày càng lớn. Loại hình doanh nghiệp này rất linh hoạt và thích nghi nhanh chóng với sự thay đổi về cung - cầu trên thị trường và đóng góp một tỷ trọng ngày càng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Xu hướng phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời điểm hiện nay là giao lưu và hội nhập một cách tích cực vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Vào những năm cuối của thế kỷ XX, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong hội nhập kinh tế và thương mại đó là những sự kiện: Gia nhập ASEAN(1995), APEC(1997), Ký hiệp định thương mại Việt Mỹ(2001) và đang tích cực xúc tiến gia nhập WTO và hoàn thành nghĩa vụ tham gia AFTA vào năm 2006. Điều đó đang và sẽ tạo ra thời cơ đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam hiện nay. Một trong những thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp đó là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt và khốc liệt. ở đây cạnh tranh bao gồm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường nội địa và quốc tế. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm, các doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp hữu hiệu đó là tìm cách giảm chi phí kinh doanh ở mức hợp lý để từ đó có thể hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường và tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.
Với mỗi doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán hạch toán kinh doanh độc lập thì việc tính toán xác định chi phí, quản lý chi phí và phân tích hiệu quả của việc thực hiện chi phí trong doanh nghiệp là rất cần thiết, nó có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh (Nó cũng giúp cho doanh nghiệp có thể phân tích đánh giá quá trình thực hiện chi phí của mình, tìm ra những điểm còn tồn tại bất hợp lý trong quản lý và sử dụng chi phí, từ đó xác định được nguyên nhân, đề ra phương hướng và biện pháp hạ thấp chi phí và sử dụng chi phí một cách hiệu quả nhất ).
Như vậy có thể nói, với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn phải nghĩ đến phương trình kinh tế cơ bản nhất, đơn giản nhất nhưng cũng không dễ giải. Đó là : Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí.
Để tăng lợi nhuận thì hoặc là tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc mức tăng doanh thu phải lớn hơn mức tăng chi phí. Trong đó việc giảm chi phí vẫn được coi là linh hồn, nhân tố chất lượng của phươnng trình này. Nhận thức được điều đó, sau một thời gian thực tập tại Tổng công ty Đầu tư và phát triển nhà Hà nội em đã mạnh dạn chọn đề tài “ Giải pháp nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh tại Tổng công ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà nội ” làm đề tài chuyên đề thực tập.
Chương 1. lý luận về chi phí kinh doanh và biện pháp hạ thấp chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp
1.1. Tổng quan về chi phí kinh doanh
1.1.1. Khái niệm và vai trò chi phí kinh doanh
* Khái niệm
Chi phí cố thể hiểu là mọi sự tiêu phi kinh doanh bằng tiền cho một xí nghiệp, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều khẳng định phạm trù bao trùm, khái quát nhất là phạm trù chi phí. Dần dần chi phí được phát triển thành phạm trù cụ thể là chi tiêu, chi phí tài chính và chi phí kinh doanh.
- Chi tiêu: Kosiol, Schult, Schwetlr và Weber cho rằng chi tiêu là lượng tiền doanh nghiệp đã trả cho một người, một nhóm người hoặc tổ chức nào đó với nghĩa đó. Chi tiêu là “ sự giảm tiền thanh toán, giảm tiền séc ở ngân hàng, bưu điện, tăng nợ ở các hình thức nợ, vay ngắn hạn, thay đổi nợ, giảm nợ tiền khách hàng” chi tiêu gắn với quá trình thanh toán thuần tuý tài chính nên được sử dụng trong kế toán tài chính.
- Chi phí tài chính : Có thể hiểu “ chi phí tài chính là sự giảm tài sản, là hao phí của thời kỳ tính toán, được tập hợp ở kế toán tài chính ” chi phí tài chính là một phạm trù gắn liền với chi phí và chỉ xuất hiện ở bộ phận kế toán tài chính.
- Chi phí kinh doanh: là sự hao phí vạt phẩm hoặc dịch vụ liên quan đến việc tạo ra kết quả và đánh giá được. Theo Wochi thì “ chi phí kinh doanh là sự hao phí xét trên phương diện giá trị các vật phẩm, dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng như để duy trì năng lực sản xuất cần thiết cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó”. Dù quan niệm như thế nào thì bao gìơ chi phí kinh doanh cũng mang ba đặc trưng bắt buộc:
+ Một là sự hao phí vật phẩm và dịch vụ
+ Hai là sự hao phí vật phẩm gắn liền với kết quả
+ Ba là những vật phẩm dịch vụ phải được đánh giá.
Như vậy chi phí kinh doanh là một phạm trù gắn liền với chi phí và chỉ xuất hiện ở tính chi phí kinh doanh khác chi phí tài chính về cả nội dung lẫn độ lớn.
* Vai trò của chi phí kinh doanh
Chi phí kinh doanh có vai trò hết sức quan trọng trong doanh nghiệp sản xuất cũng như thương mại, nó có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh, tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thương trường.
Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh nhiều mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
Đây là những chi phí cần thiết để thực hiện các quá trình lưu chuyển hàng hoá từ nơi mua đến nơi bán.
Chi phí kinh doanh có vai trò quan trọng, là đòn bẩy, là động lực kinh tế quan trọng, là phương tiện kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và công tác quản lý chi phí kinh doanh thực sự là cần thiết đối với doanh nghiệp. Vì vậy, phấn đấu tiết kiệm chi phí kinh doanh để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên đặc biệt là khi Nhà nước giao quyền tự chủ kinh doanh thì các doanh nghiệp Nhà nước phải tìm mọi cách để tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí, cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển trên thương trường. Đó là tư tưởng xuyên suốt trong công tác quản lý chi phí kinh doanh.
1.1.2. Phân loại chi phí kinh doanh
Trong chi phí kinh doanh có nhiều yếu tố khác nhau về nội dung kinh tế cũng như nguồn hình thành, do vậy để đáp ứng yêu cầu quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, xác định đúng đắn phương hướng phấn đấu tiết kiệm chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vật tư tiền vốn và lao động của doanh nghiệp thì cần phải tiến hành phân loại, nghiên cứu kết cấu chi phí kinh doanh một cách có khoa học. Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp kiểm tra, phân tích quá trình phát sinh chi phí và xu hướng thay đổi kết cấu chi phí để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý chi phí khác nhau mà có thể phân loại chi phí kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau.
* Phân loại chi phí kinh doanh theo quan hệ với các đối tượng chịu phí
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí có quan hệ trực tiếp đến chi phí kinh doanh một loại sản phẩm nhất định.
Chi phí trực tiếp bao gồm chi phí cho nhân viên bán hàng, đóng gói, vận chuyển, giới thiệu, bảo hành sản phẩm, các chi phí vật liệu bao bì, công cụ, dụng cụ, đồ dùng phục vụ, quy trình tiêu thụ hàng hoá, chi phí khấu hao tài sản cố định ở bộ phận bảo quản hàng hoá như nhà kho, cửa hàng, bến bãi.
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí quản lý chung của doanh nghiệp gồm chi phí quản lý kinh doanh, chi phí quản lý hành chính, chi phí khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp là loại chi phí gián tiếp nói chung không phụ thuộc vào quá trình tiêu thụ sản phẩm.
* Phân loại theo chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Theo cách phân loại này thì chi phí kinh doanh của doanh nghiệp thương mại được phân loại như sau:
- Chi phí mua hàng: Là những loại chi phí phát sinh liên quan đến số lượng hàng hoá mua về nhập kho để bán của doanh nghiệp trong kỳ. Thuộc nhóm này bao gồm:
+ Chi phí vận chuyển bốc dỡ bảo quản
+ Thuế, lệ phí và hoa hồng ở khâu mua hàng hoá.
+ Các chi phí về bảo hiểm hàng hoá, tiền thuê kho bãi phát sinh ở khâu mua hàng hoá.
- Chi phí bán hàng: Là toàn bộ các chi phí gắn liền với quá trình phục vụ bán hàng và quá trình bán hàng của doanh nghiệp trong kỳ. Thuộc nhóm này bao gồm:
+ Chi phí vật liệu bao bì là các chi phí về vật liệu bao bì xuất dùng phục vụ cho quá trình bảo quản và tiêu thụ hàng hoá, bốc dỡ và vận chuyển hàng hoá, vật liệu sửa chữa tài sản cố định.
+ Chi phí khấu hao ở bộ phận bảo quản hàng hoá như: Kho, cửa hàng, phương tiện vận chuyển, bốc dỡ kiểm nghiệm hàng hoá.
+ Chi phí mua ngoài: Là các chi phí như thuê ngoài sửa chữa tài sản cố định, tiền thuê kho bãi, vận chuyển bốc dỡ hàng hoá đi tiêu thụ.
+ Các chi phí khác: Là những chi phí bằng tiền phát sinh ở khâu bán hàng ngoài các chi phí kể trên như chi phí tiếp khách, giới thiệu sản phẩm quảng cáo, bảo hành sản phẩm hàng hoá, khuyến mại.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hoá phát sinh ở bộ máy quản lý chung của doanh nghiệp thương mại bao gồm các chi phí liên quan đến quản lý hành chính, quản lý kinh doanh và các chi phí chung khác liên quan đến mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp trong kỳ. Xét theo nội dung kinh tế, chi phí quản lý doanh nghiệp được chia thành:
+ Chi phí nhân viên quản lý.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định ở bộ phận quản lý chung.
+ Thuế phí, lệ phí.
+ Chi phí về dịch vụ mua ngoài.
+ Chi phí bằng tiền khác.
Chi phí quản lý doanh nghiệp là bộ phận chi phí gián tiếp trong chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ trọng của bộ phận chi phí này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Việc phân loại chi phí kinh doanh theo cách này giúp doanh nghiệp tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng khâu để từ đó có biện pháp quản lý thích hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp mình.
* Phân loại theo tính chất biến đổi của chí phí so với mức lưu chuyển hàng hoá
- Chi phí bất biến: Là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ không thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể khi mức lưu chuyển hàng hoá trong doanh nghiệp thay đổi. Chi phí kinh doanh bất biến bao gồm:
+ Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ Trừ dần công cụ lao động nhỏ.
+ Tiền thuê kho, trụ sở trong một thời kỳ.
- Chi phí khả biến: Là những khoản chi phí biến động cùng với sự thay đổi của mức lưu chuyển hàng hoá. Sự phụ thuộc của chi phí kinh doanh khả biến vào tổng mức lưu chuyển hàng hoá và còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng khoản mục của chi phí kinh doanh khả biến. Chi phí kinh doanh khả biến bao gồm:
+ Chi phí vận chuyển, bốc dỡ.
+ Chi phí về bao bì vật liệu đóng gói.
+ Lương cán bộ trực tiếp.
+ Chi phí nguyên, nhiên, vật liệu.
1.1.3 Phạm vi áp dụng và nội dung chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp
* Phạm vi của chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp
Về mặt lý luận chung, chi phí kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được bù đắp từ doanh thu hoặc thu nhập của doanh nghiệp trong kỳ.
Vì vậy về nguyên tắc, tất cả các chi phí phát sinh trong kỳ được bù đắp từ nguồn riêng hay nói cách khác là không được bù đắp từ doanh thu hoặc thu nhập của doanh nghiệp thì đều không phải là chi phí kinh doanh. Hơn thế nữa chi phí kinh doanh chỉ phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ nên tất cả các chi phí phát sinh trong kỳ không trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ đó đều không phải là chi phí kinh doanh. Chỉ được hạch toán vào chi phí kinh doanh là những chi phí trực tiếp liên quan đến quá trình lưu chuyển hàng hoá.
Theo chế độ mới về quản lý tài chính doanh nghiệp của Bộ tài chính đã quy định những khoản mục sau không được tính vào chi phí kinh doanh:
- Các khoản đã được tính vào chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động bất thường, các khoản lỗ do liên doanh liên kết, lỗ từ các khoản đầu tư khác.
- Các khoản thua lỗ, thiệt hại do chủ quan của đơn vị gây ra hoặc khách quan đưa lại đã được Chính phủ trợ cấp hoặc được bên thiệt hại, các công ty bảo hiểm bồi thường.
- Chi phí đi công tác nước ngoài vượt định mức do nhà nước quy định.
- Các khoản thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ như khoản chi sự nghiệp đã được ngân sách Nhà nước, cơ quan cấp trên hoặc tổ chức khác hỗ trợ; Chi trả lãi vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong thời kỳ công trình chưa hoàn thành đưa vào sử dụng. Số lãi này được hạch toán vào chi phí đầu tư xây dựng cơ bản.
- Các khoản đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định hữu hình và vô hình, chi ủng hộ địa phương: đoàn thể, tổ chức xã hội khác. Các chi phí cho đào tạo, chi phí nghiên cứu khoa học. Nhóm chi phí này được bù đắp từ nguồn vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp, vì vậy chúng không thuộc vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
- Các khoản chi thuộc nội dung chi của nguồn kinh phí sự nghiệp, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng; Các khoản chi trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất; Các khoản chi thưởng như: thưởng năng suất, thưởng thi đua; Các khoản chi về văn hoá thể thao, vệ sinh, y tế… Các khoản chi này không tính vào chi phí kinh doanh bởi vì nguồn bù đắp chủ yếu của chúng lấy từ các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp và sự đóng góp, ủng hộ của các tổ chức xã hội khác (nếu có).
- Các khoản chi khác: Các khoản tiền phạt như: phạt vi phạm luật giao thông, luật thuế, luật môi trường, luật lao động, vi phạm chế độ báo cáo thống kê, tài chính kế toán, vi phạm hợp đồng kinh tế thương mại. Nếu do tập thể hoặc cá nhân vi phạm pháp luật thì tập thể hoặc cá nhân phải nộp phạt sẽ không được tính vào chi phí kinh doanh.
+ Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước khống chế định mức chi phí đối với một số loại chi phí như: chi phí tiếp tân, hội họp, giao dịch đối ngoại, chi phí đối ngoại do hội đồng quản trị quyết định mức chi cụ thể.
+ Đối với doanh nghiệp độc lập: Giám đốc doanh nghiệp phải thoả thuận với cơ quan quản lý vốn tài sản và bằng văn bản trước khi ban hành quy chế và định mức chi tiêu. Các khoản chi này phải có chứng từ hợp lệ gắn với kết quả kinh doanh và không vượt quá mức khống chế tối đa quy định dưới đây:
~ Doanh thu đến 5 tỷ đồng, mức chi phí thực tế không quá 5% số doanh thu; phần doanh thu từ 5 đến 10 tỷ đồng được chi thêm không quá 2% trên số doanh thu tăng thêm.
~ Phần doanh thu từ 10 đến 15 tỷ đồng được chi thêm không quá 1% trên số doanh thu tăng thêm.
~ Phần doanh thu từ 50 đến 100 tỷ đồng được chi thêm không quá 0.1% trên số doanh thu tăng thêm.
* Nội dung của chi phí kinh doanh
- Chi phí mua hàng:
Chi phí mua hàng bao gồm: Chi phí vận chuyển bốc dỡ bảo quản, lương cán bộ công nhân viên chuyên trách ở khâu mua hàng hoá, thuế, lệ phí, hoa hồng ở khâu mua và các chi phí về bảo hiểm hàng hoá, tiền thuê kho bãi phát sinh ở khâu mua hàng.
- Chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng là các khoản chi phí phát sinh trong quá trình bán hàng và tiêu thụ sản phẩm. Chi phí bán hàng gồm có:
+ Chi phí nhân viên: Là các khoản chi trả cho nhân viên bán hàng, nhân viên đóng gói vận chuyển, bảo quản hàng hoá. Bao gồm tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
+ Chi phí vật liệu bao bì: Là các khoản chi phí vật liệu bao bì phục vụ cho việc giữ gìn, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ như chi phí vật liệu đóng gói sản phẩm hàng hoá, chi phí vật liệu nhiên liệu dùng cho bảo quản bốc vác, vận chuyển sản phẩm hàng hoá trong quá trình tiêu thụ, vật liệu dùng cho sửa chữa bảo quản tài sản cố định.
+ Chi phí dụng cụ đồ dùng: Là các khoản chi về công cụ đồ dùng phục vụ trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá như dụng cụ đo lường, phương tiện tính toán, phương tiện làm việc.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là khoản chi khấu hao tài sản cố định ở bộ phận bảo quản bán hàng như kho bãi, cửa hàng, phương tiện bốc dỡ vận chuyển, phương tiện tính toán, đo lường kiểm nghiệm chất lượng.
+ Chi phi dịch vụ mua ngoài: Là các khoản chi mua ngoài phục vụ cho khách hàng như các chi phí thuê ngoài sửa chữa tài sản cố định, tiền thuê kho, tiền bốc vác vận chuyển hàng hoá tiêu thụ, hoa hồng cho các đại lý bán hàng cho đơn vị nhận uỷ thác xuất nhập khẩu.
+ Chi phí hao hụt định mức: Là số tiền tương ứng với giá trị hàng hoá hao hụt trong quá trình lưu chuyển, bảo quản hàng hoá và do tính chất thương phẩm học của hàng hoá gây ra. Theo quy định của Nhà nước thì chi phí này được chỉ định và chỉ có hao hụt trong định mức mới được tính vào chi phí kinh doanh.
+ Chi phí bằng tiền khác: Là các khoản chi phí khác các chi phí kể trên phát sinh trong chi phí bán hàng như chi phí tiếp khách ở bộ phận bán hàng, chi phí giới thiệu sản phẩm hàng hoá, chi quảng cáo chào hàng, chi hội nghị khách hàng, chi bảo hành sản phẩm.
Những chi phí này phát sinh thực tế khó có thể ra định mức quản lý. Người quản lý chi phí sao cho hợp lý để đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp.
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là những chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, các kết cấu bán thành phẩm và các vật liệu luân chuyển (ván khuôn, đà giáo...). Nguyên vật liệu trực tiếp thường là xi măng, sắt thép, gạch xây, gỗ,cát, đá, sơn và các loại vật liệu phụ khác phục vụ trực tiếp cho thi công xây dựng công trình. Nguyên vật liệu trực tiếp có thể được xuất kho hoặc mua luôn tại địa điểm tiến hành thi công. Ngoài ra chi phí nguyên vật liệu trực tiếp còn bao gồm các thiết bị vệ sinh đi kèm với nguyên vật liệu chi phí vật liệu tính đến chân công trình. ở đây không kể nguyên nhiên vật liệu dùng cho máy thi công, lán trại thi công, nguyên nhiên liệu các xưởng sản xuất phụ. Thông thường chi phí nguyên vật liệu là phần cốt yếu nhất trong tổng chi phí xây dựng một công trình và thường tăng lên khi khối lượng công trình tăng. Các doanh nghiệp xây lắp thường quản lý chặt chẽ khoản chi phí này, tiến hành sản xuất trên cơ sở dự toán, chứng từ hợp lý, hợp lệ.
- Chi phí nhân công trực tiếp
Đối với các doanh nghiệp xây lắp chi phí nhân công có ý nghĩa quyết định rất lớn đến lợi nhuận. Chi phí nhân công trực tiếp là chi phí tiền lương (lương cơ bản, phụ cấp lưu động,phụ cấp không ổn định sản xuất, lương phụ cho nghỉ lễ tết phép và một số chi phí lương khác) của công nhân trực tiếp làm nhiệm vụ xây lắp kể cả công nhân chuyên nghiệp hoặc không chuyên nghiệp.Chi phí này không bao gồm lương của công nhân điều khiển máy, công nhân sản xuất ở các phân xưởng phụ cũng như của cán bộ công nhân viên gián tiếp. Các khoản trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ cũng không nằm trong chi phí nhân công trực tiếp.
Việc trả lương ở các doanh nghiệp xây lắp được tiến hành theo hình thức trả lương thời gian hoặc trả lương sản phẩm hoặc kết hợp cả hai và thường thì lương thời gian được áp dụng cho bộ máy quản lý chỉ đạo sản xuất, lương sản phẩm áp dụng cho bộ phận trực tiếp thi công xây dựng công trình.
- Chi phí máy.(Công cụ dụng cụ)
Việc hạch toán tương tự như việc hạch toán nguyên vật liệu, chi phí này chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong giá thành sản phẩm. Công cụ dụng cụ được phân ra làm hai loại là loại phân bổ một lần và loại phân bổ nhiều lần. Loại phân bổ một lần thường là cuốc, xẻng.... còn loại phân bổ nhiều lần như máy đầm, máy hàn.... Chi phí một lần là những chi phí chỉ phát sinh một lần.
- Chi phí sản xuất chung. Chi phí sản xuất chung trong các doanh nghiệp xây lắp gồm có:
+ Chi phí nhân viên quản lý công trình
+ Chi phí sử dụng máy thi công
+ Chi phí trực tiếp khác
- Chi phí nhân viên quản lý công trình
Chi phí nhân viên quản lý công trình gồm lương đội trưởng, chủ nhiệm công trình, được phân bổ cho từng công trình theo tiêu thức tỷ lệ tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất.
Việc tính toán chi phí nhân viên quản lý công trình dựa vào:
+ Ngày công làm việc, mức độ hoàn thành công việc
+ Chức vụ đảm nhận
+ Phụ cấp khác
và được thực hiện dựa vào bản chấm công do các bộ phận gửi lên và chính sách chế độ hiện hành của Nhà nước về tiền lương.
- Chi phí sử dụng máy thi công.
Chi phí sử dụng máy thi công là những chi phí phục vụ máy trực tiếp thi công xây lắp công trình, hạng mục công trình, bao gồm chi phí nhiên liệu, động lực, khấu hao máy thi công, bảo dưỡng định kỳ, tiền lương công nhân điều khiển máy thi công. Việc