Tài chính BHXH là khâu tài chính trung gian và ngày càng lớn mạnh. Cho nên quản lý nguồn tài chính này không phải đơn giản và thực tế đã chứng minh nếu không được quản lý chặt chẽ thì tài chính BHXH nhiều nước trên thế giới sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người tham gia BHXH đồng thời còn làm bội chi ngân sách và nguy hiểm hơn nếu nguồn tài chính không đủ để chi trả kịp thời sẽ làm cho xã hội bị bất ổn, uy tín của Đảng và nhà nước bị giảm sút, người lao động và người sử dụng lao động thiếu tin tưởng vào chính sách BHXH cho nên quản lý bảo toàn nguồn tài chính BHXH là cần thiết khách quan.
69 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
T
ài chính BHXH là khâu tài chính trung gian và ngày càng lớn mạnh. Cho nên quản lý nguồn tài chính này không phải đơn giản và thực tế đã chứng minh nếu không được quản lý chặt chẽ thì tài chính BHXH nhiều nước trên thế giới sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người tham gia BHXH đồng thời còn làm bội chi ngân sách và nguy hiểm hơn nếu nguồn tài chính không đủ để chi trả kịp thời sẽ làm cho xã hội bị bất ổn, uy tín của Đảng và nhà nước bị giảm sút, người lao động và người sử dụng lao động thiếu tin tưởng vào chính sách BHXH cho nên quản lý bảo toàn nguồn tài chính BHXH là cần thiết khách quan.
Hiện nay tài chính BHXH Việt Nam được đánh giá là đang ổn định. Tuy nhiên sự ổn định này chỉ trong ngắn hạn do chế độ BHXH vẫn còn mới với sự tăng lên rõ rệt về số lượng lao động tham gia đóng BHXH do cơ cấu nhân khẩu và sự bao cấp của Nhà nước cho người nghỉ hưu trước 1-1-1995. Xu hướng già hoá của dân số cộng với tỷ lệ đóng góp BHXH tương đối thấp là (20%), về lâu dài nếu so với các nước khác trên thế giới là không thể đủ để duy trì sự ổn định của chế độ BHXH (theo phân tích của một số chuyên gia tài chính). Do vậy nâng cao năng lực cho hệ thống BHXHVN để chuẩn bị đối phó với những thách thức trong thế kỷ 21 là một vấn đề đã và đang thường xuyên được Đảng và các cấp quản lý Nhà nước có liên quan tiến hành nghiên cứu.
Đứng trước những bức xúc trên, BHXH Việt Nam cần phải làm những gì để có thể tránh khỏi những khó khăn về tài chính trong quá trình phát triển.
Với mục đích được góp phần rất nhỏ bé vào mục tiêu hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của hệ thống BHXH ở Việt Nam em mạnh dạn chọn đề tài "Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam". Đây là một vấn đề khó và mang tính tổng quan cao. Vì vậy, để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, các cán bộ làm việc tại cơ quan BHXH Việt Nam nói chung, tại Ban Kế Hoạch - Tài chính nói riêng. Qua đây cho phép em gửi lời cảm ơn đến tất cả các cô chú, anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, lựa chọn đề tài và hoàn thiện chuyên đề này.
Nội dung chính của chuyên đề này gồm có 3 phần:
Phần I: Lý luận cơ bản về tài chính Bảo hiểm xã hội.
Phần II: Thực trạng công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam.
Phần III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam.
Phần I
Lý luận cơ bản về tài chính
bảo hiểm xã hội
Một số nội dung chính về BHXH
1. Khái niệm BHXH
Kể từ khi có xã hội loài người đến nay, con người đã vận dụng đủ mọi cách để tìm ra những biện pháp phòng tránh tai nạn rủi ro, nhằm giữ vững sự ổn định trong đời sống kinh tế. Vì vậy ngay từ thời kỳ cổ xưa đã nẩy sinh tư tưởng lập quỹ dự trữ cứu tế và bảo hiểm tương hỗ. Thí dụ như ở Ai cập thời kỳ cổ xưa, những người thợ đá đã thành lập ra một tổ chức, người tham gia vào tổ chức này phải đóng tiền lệ phí, khi hội viên chết tổ chức này đứng ra chi trả tiền mai táng. Song vì trình độ sản xuất xã hội lúc đó còn thấp, chưa thể nào tích luỹ đủ để xây dựng quỹ bồi thường tổn thất bất ngờ. Mãi cho tới gần đây khi sức sản xuất xã hội đã có những bước phát triển mạnh mẽ thì xuất hiện sự thuê mướn lao động. Xã hội càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc và việc thuê mướn lao động ngày càng diễn ra nhanh chóng và ở diện rất rộng. Trong quá trình thuê mướn lao động đã phát sinh một loạt vấn đề liên quan đến lao động. Thí dụ như người lao động bị tai nạn, ốm đau, chết, lao động nữ sinh đẻ. Trong những thời gian ngừng việc vì những lý do nói trên người lao động mất thu nhập. Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống trực tiếp của gia đình họ, ảnh hưởng đến tâm lý tình cảm. Chính vì vậy phát sinh mâu thuẫn giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này được thể hiện: giới chủ luôn yêu cầu người lao động làm việc với cường độ cao, thời gian kéo dài và trong thời gian người lao động nghỉ ốm sinh đẻ... không trả lương. Về phía thợ luôn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm đồng thời những ngày ốm đau bị nghỉ việc họ vẫn yêu cầu giới chủ trả lương bình thường. Mâu thuẫn trên kéo dài hàng trăm năm và nó diễn ra sâu sắc và gay gắt nhất vào giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Chính vì vậy nhà nước đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn.
Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp giữa chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước(NSNN), khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Chính vì vậy giới chủ và giới thợ đều thấy mình có lợi và thực hiện cam kết này một cách nghiêm chỉnh.
Mối quan hệ nêu trên được gọi là BHXH. Như vậy BHXH là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã hội giữa nhà nước với người lao động và người sử dụng lao động nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm dẫn đến việc giảm hoặc mất thu nhập. Mục đích cuối cùng của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi người.
2. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH
BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là khó có thể nói những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ khi mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của các thời kỳ có sự tiến bộ và phát triển hơn. Do vậy sau đây chỉ là những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng để xây dựng những nguyên tắc cần thiết phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
Nguyên tắc 1 : “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và hưởng quyền lợi BHXH”
BHXH là một trong những quyền con người và được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948. Tuyên ngôn ghi rõ “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên trong xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sơ sự thoã mãn các quyền về kinh tế , xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người.”
- Nguyên tắc 2 : “BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện ”. Để tiến tới xây dựng hệ thống chế độ BHXH tối ưu nhất phải đi từ tính bắt buộc của BHXH đó là quá trình tiến tới xã hội hoá hoàn toàn BHXH và vai trò của Nhà nước được phát huy tối đa và chiếm ưu thế. Tính bắt buộc được thể hiện trong các nghĩa vụ tham gia và nghĩa vụ đóng góp bao gồm mức đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham gia đối với từng chế độ BHXH cụ thể. Tính bắt buộc được thể chế hoá ở hầu hết các nước dưới hình thức các chính sách, các chế độ BHXH cụ thể và những quy định của chính phủ hay luật BHXH. Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia BHXH có quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân.
- Nguyên tắc 3 : “ Đảm bảo tính công bằng trong BHXH”. Tính công bằng trong BHXH bao gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ lệ hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích số đông của cộng đồng. Tuy nhiên không thể đảm bảo tính công bằng tuyệt đối vì BHXH hoạt động theo nguyên tắc số đông bù số ít”.
- Nguyên tắc 4 : “ Xác định mức đóng và mức hưởng hợp lý”. Đóng hưởng phải hợp lý thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính công bằng. Mặt khác sự hợp lý này còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng người tham gia vào BHXH thực tế, quyết định sự thành công của chính sách BHXH đối với mỗi một quốc gia, bởi vì chính sách BHXH có đảm bảo tính công bằng thì người lao động mới tự giác tham gia.
- Nguyên tắc 5 : “BHXH phải đảm bảo chi trả bù đắp được thu nhập cho người lao động để họ có thể duy trì được cuộc sống ở mức tối thiểu khi họ bị mất sức lao động tạm thời cũng như nghỉ hưu”.
3. Các chế độ BHXH
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1919) Tổ chức lao động quốc tế được thành lập(International Labor Organization - ILO). Sự kiện này góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển chính sách BHXH. Cho đến nay công ước quốc tế số 102 về chế độ BHXH của ILO (tháng 6.1952) vẫn đã và đang được xem như một bảng chuẩn mực về các chế độ BHXH cần thiết cho mỗi quốc gia. Công ước đã quy định các chế độ BHXH như sau:
Chăm sóc y tế
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp thai sản(trợ cấp sinh đẻ)
Trợ cấp khi tàn phế
Trợ cấp mất người nuôi dưỡng(trợ cấp cho người còn sống)
Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơ-ne-ver thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ trong đó yêu cầu ít nhất phải có 1 trong các chế độ 3,4,5,8,9.
Mỗi chế độ trong hệ thống những chế độ được khuyến nghị khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế xã hội cụ thể: tài chính, thu nhập, tiền lương cơ bản,... Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng, xác xuất tử vong.
* Đặc điểm chủ yếu của hệ thống chế độ BHXH được tóm tắt như sau:
Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước
Hệ thống các chế độ mangg tính chất chia sẻ rủi ro chia sẻ tài chính.
Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của mỗi bên tham gia.
Phần lớn các chế độ BHXH được chi trả định kỳ.
Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
Chi trả BHXH như là quyền lợi được hưởng của mỗi chế độ BHXH.
Mức chi trả còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của quỹ dự trữ, quỹ dự trữ được đầu tư an toàn và có hiệu quả thì mức chi trả mới cao, mới ổn định.
Hệ thống các chế độ trên có thể thay đổi theo từng thời kỳ tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.
4. Cấp độ thực hiện BHXH
Có 3 cấp độ thực hiện BHXH đó là:
Cấp độ 1: Được thực hiện như là bảo trợ xã hội, nghĩa là BHXH được áp dụng cho những thành viên là những người không có thu nhập hoặc thu nhập rất thấp trong xã hội. Các đối tượng này không có khả năng đóng BHXH nên không hình thành được quỹ BHXH. Nhà nước sẽ đứng ra đảm bảo chi trả cho họ.
Cấp độ 2: Được áp dụng dưới hình thức bắt buộc. Bắt buộc tham gia và bắt buộc đóng phí. Đối tượng tham gia chính của cấp độ này là những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính sự nghiệp, chính phủ. Họ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số những người tham gia và được hưởng lợi ích từ BHXH.
Cấp độ 3: Là cấp độ mà ở đó người tham gia BHXH có quyền tự lựa chọn chế độ tham gia BHXH cho mình. Đây còn gọi là BHXH tự nguyện. Đối với cấp độ này ngành BHXH sẽ phả có chế độ và quy định riêng để quản lý và tổ chức thực hiện cũng như trên phương diện hạch toán.
Các cấp độ trên được mỗi nước áp dụng thực hiện tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh, khả năng tổ chức và quản lý,... sẽ quyết định mỗi quốc gia sẽ thực hiện 1 hay nhiều hơn các cấp độ trên. Những nước có nền kinh tế phát triển thì càng có điều kiện hơn để phát triển những hoạt động BHXH của mình ở trình độ cao hơn.
quỹ và quản lý tài chính Bhxh
1. Khái quát chung về quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH: Người lao động, chủ sử dụng lao động, đóng và hỗ trợ của Ngân sách nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngoài NSNN.
1.1. Nguồn quỹ BHXH.
Để hình thành nên quỹ BHXH, có thể có các nguồn sau:
+ Thu từ đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động. Chủ sử dụng lao động thường đóng theo tỷ lệ phần trăm cố định quỹ lương của những người lao động tham gia BHXH trong đơn vị còn người lao động thường đóng theo tỷ lệ phần trăm cố định theo thu nhập thực tế của họ.
+ Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
Nhà nước thường đóng cho một nhóm người được bảo hiểm đặc biệt hoặc là những người trong hoàn cảnh tài chính không bình thường. Chính phủ với tư cách là người sử dụng lao động sẽ đóng đều đặn một khoản tiền vào quỹ BHXH.
+ Các nguồn khác.
Quỹ BHXH cũng có thể nhận thu từ các nguồn khác như từ các cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, từ lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi. Song thu từ các nguồn này thường không nhiều và không ổn định.
1.2. Phân loại quỹ BHXH
Quỹ BHXH dùng để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, chi phí quản lý bộ máy của hệ thống BHXH cho hoạt động bảo tồn, tăng trưởng quỹ BHXH và chi khác.
Nhằm quản lý và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả nhất người ta sẽ tiến hành phân loại quỹ BHXH theo từng tiêu chí khác nhau cho phù hợp với mục đích nghiên cứu có thể phân loại theo một số tiêu chí phổ biến sau:
* Theo tính chất sử dụng bao gồm :
- Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động tạm thời.
- Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất, hưu do tàn tật hoặc mất sức lao động.
* Theo các chế độ bao gồm :
Quỹ hưu trí, tử tuất.
Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Quỹ thất nghiệp.
Quỹ ốm đau, thai sản.
* Theo đối tượng tham gia BHXH bao gồm :
Quỹ cho công chức nhà nước.
Quỹ cho lực lượng vũ trang.
Quỹ cho người lao động trong các doanh nghiệp.
Quỹ cho các đối tượng còn lại.
Cho dù phân loại quỹ theo tiêu chí nào thì quản lý quỹ BHXH vẫn là một vấn đề quan trọng trong quản lý tài chính BHXH. Có quản lý tốt quỹ BHXH thì mới quản lý tài chính BHXH tốt được.
2. Quản lý tài chính BHXH
Quản lý tài chính BHXH bao gồm quản lý nhà nước về tài chính BHXH. Chuyên đề này sẽ tập trung nghiên cứu quản lý sự nghiệp tài chính BHXH. Chủ yếu liên quan đến quá trình sử dụng một cách có hiệu quả thu chi BHXH bao gồm 5 nội dung sau:
Quản lý thu BHXH
Quản lý chi BHXH
Quản lý chi hoạt động bộ máy
Cân đối thu chi quỹ BHXH
Quản lý hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH
Đối với nước ta, chính sách BHXH hiện đang áp dụng cho các chế độ BHXH bắt buộc, vì thế trong phạm vi chuyên đề này sẽ tập chung nghiên cứu vào nội dung quản lý tài chính BHXH đối với các chế độ BHXH bắt buộc.
Quản lý thu BHXH
Thu nhằm tạo lập quỹ BHXH. Do vậy các nguồn hình thành quỹ BHXH cũng chính là các nguồn thu BHXH. Trong các nguồn hình thành quỹ BHXH nguồn do người sử dụng lao động và người lao động đóng là nguồn chủ yếu nhất NSNN chỉ hỗ trợ thêm trong những trường hợp cần thiết. Phần thu do đầu tư quỹ nhàn rỗi sẽ được đề cập trong một mục riêng do tính chất thu của đầu tư quỹ khác với thu từ hai đối tượng này. Do tính quan trọng của nguồn thu từ người lao động và người sử dụng lao động, nên quản lý thu BHXH sẽ tập trung vào nghiên cứu quản lý nguồn thu BHXH từ hai đối tượng này (sau đây gọi tắt là công tác quản lý thu BHXH)
Trong công tác quản lý thu BHXH cốt lõi là quản lý đối tượng tham gia BHXH và quỹ tiền lương của từng đơn vị tham gia BHXH.
Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một công việc phức tạp. Trên cơ sở những đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định, công tác quản lý thu BHXH phải thực hiện những nội dung sau
Quản lý số lượng lao động đăng ký tham gia BHXH
Quản lý số lượng lao động bắt buộc phải tham gia BHXH theo quy định.
Quản lý công tác cấp sổ BHXH; sổ BHXH có vai trò xác nhận quá trình đóng BHXH của người tham gia theo thời gian đóng góp, mức đóng góp, ngành nghề công tác.
Quản lý quỹ lương của từng đơn vị tham gia BHXH
Căn cứ vào mức thu BHXH đã quy định của Nhà nước, cơ quan BHXH tiến hành thu BHXH của đối tượng tham gia trên cơ sở tiền lương được bảo hiểm của họ. Đối với chủ sử dụng lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu theo một tỷ lệ % nhất định so với tổng quỹ lương tháng thực tế của họ. Đối với người lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu theo một tỷ lệ % nhất định trên tiền lương tháng thực tế của họ. Quản lý thời gian và mức đóng BHXH, cơ quan BHXH thực hiện quản lý nội dung này để có căn cứ chi trả các chế độ cho người lao động. Tuỳ thuộc vào chính sách BHXH của từng nước mà mức thu trên lương được BHXH cũng khác nhau. Dưới đây là một số ví dụ :
ở mỹ : Trong số tiền lương của người lao động, Chính phủ sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định. Sau đó đưa các khoản thu này vào quỹ BHXH. Mức khấu trừ cụ thể:
- Người lao động 7,65%
- Người sử dụng lao động 13,65%
ở Thái Lan: Thực hiện đóng BHXH theo cơ chế người lao động nộp 1/3 trên thu nhập giới chủ nộp 1/3, nhà nước 1/3.
Còn ở Việt Nam:
- Người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương của người lao động tham gia BHXH.
- Người lao động đóng 5% lương.
- Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết.
Quản lý tiền thu BHXH để hình thành quỹ BHXH tập trung, tiền thu của từng đối tượng và đơn vị tham gia BHXH phải được tập trung về một mối và chịu sự quản lý chắt chẽ của cơ quan Nhà nước.
Quản lý chi trợ cấp các chế độ
Quản lý các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH bao gồm quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH và quản lý cấp kinh phí cho quá trình thực hiện chi trả các chế độ BHXH . Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể là bản thân người lao động hoặc những người thân của họ. Đối tượng có thể hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp dài hạn, mức độ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy định (căn cứ vào mức đóng góp, thời gian đóng góp, tiền lương làm căn cứ đóng góp…) biến cố rủi ro mà người lao động gặp phải. Trợ cấp một lần có thể được trả cho chế độ hưu trí (tuổi già hoặc mất sức) trả cho các thành viên gia đình có người chết (mai táng phí) trả cho chế độ thai sản. Trợ cấp một lần thường áp dụng cho các chế độ ngắn hạn. Trong hệ thống bảo hiểm hầu hết các nước, người ta thấy rằng chi phí hàng năm cho các chế độ hưởng theo phần trăm lương được bảo hiểm này giữ tương đối ổn định. Do đó phải thường xuyên lập chế độ chi tài chính cho những chế độ này theo khoản thu bảo hiểm đóng ở tỷ lệ tính toán đủ chi cho một năm. nếu có sự khác nhau nhỏ về tài chính giữa các năm có thể sử dụng một quỹ riêng (quỹ dự phòng) để giải quyết. Tuy nhiên đối với những chế độ ngắn hạn thường không phải sử dụng những quỹ dự phòng riêng như vậy. Trợ cấp dài hạn được trả trong các trường hợp sau :
+ Trả trong suốt thời gian hưu trí của người được bảo hiểm .
+ Trả chế độ tử tuất sau khi người được bảo hiểm chết.
+ Trả trên cơ sở tạm thời hoặc vĩnh viễn (chẳng hạn như tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp )
Quản lý kinh phí chi trả các chế độ BHXH phải áp dụng phương thức quản lý chi trả cho phù hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng đối tượng đúng chế độ, kịp thời, đầy đủ, chính xác và an toàn. Do vậy cơ quan BHXH phải thực hiện phân cấp cụ thể cho hệ thống chi trả để công tác này được thực hiện có hiệu quả.
Quản lý chi hoạt động bộ máy
Chi hoạt động bộ máy (hay chi phí quản lý hành chính) là “ loại chi để quản lý có thể kiểm soát tài chính một cách có hiệu quả” (Nguồn : Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế: Quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam thực trạng và giải pháp - Đỗ Văn Sinh) Mức trần chi phí quản lý hành chính có thể được quy định trong các điều lệ BHXH hoặc có thể được lập trong ngân sách hàng năm.
Chi phí quản lý hành chính có thể được phân loại theo một số tiêu thức
Phân loại theo chi phí bao gồm :
Lương cho cán bộ làm việc
Đồ dùng văn phòng
Tài sản cố định liên quan đến việc duy trì tổ chức hoạt động BHXH
Phân loại theo chức năng hoạt động của các bộ phận thuộc cơ quan BHXH. Ví dụ :
Đăng kí và lưu giữ hồ sơ.
Thanh kiểm tra và tuân hành luật .
Thu phí BHXH
Chi trả chế độ.
Quản lý chung.
Quản lý hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH
Đầu t