Hiện nay, hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với đặc điểm chung là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, linh hoạt, thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh đầy biến động, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước, trong thời gian qua, loại hình doanh nghiệp này ngày càng phát triển, thể hiện vai trò to lớn trong nền kinh tế xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm , thu hồi vốn nhanh”.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, các DNVVN đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, mà điển hình là khó khăn thiếu vốn. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn rất hạn chế, đặc biệt là tiếp cận vốn ngân hàng. Hầu hết các DNVVN đều có nhu cầu đươc vay vốn ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, chứng tỏ đây là một thị trường đầy tiềm năng nhưng lại chưa được các ngân hàng chú ý.
Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại (trong đó có Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm) hầu như chỉ tập trung đến các khách hàng lớn là các doanh nghiệp nhà nước với quy mô lớn, các Tổng công ty 90, 91 với những món vay có giá trị lớn mà chưa chú trọng đến đối tượng là các DNVVN. Trong khi đó nguồn vốn huy động của NHCTKH là rất dồi dào, đủ khả năng cung cấp cho mọi nhu cầu, mọi đối tượng của nền kinh tế. Vì vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường tín dụng đối với DNVVN thì ngân hàng cần đề ra biện pháp nhằm thu hút những khách hàng này.
Trong thời gian thực tập tại NHCTHK em có tìm hiểu mối quan hệ tín dụng của ngân hàng với các DNVVN và nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề , nên em đã chọn đề tài :” Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK” cho chuyên đề tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một số ý kiến giúp ngân hàng mở rộng thị trường cho vay sang khu vực các DNVVN, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế .
Ngoài mở đầu và kết luận, bài viết gồm ba chương:
Chương 1 : Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNVVN
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK
Do phạm vi đề tài rộng , thời gian thực tập có hạn , nhất là trình độ lí luận và sự hiểu biết thực tế không nhiều nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân hàng
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo thạc sĩ Phạm Long cùng các anh chị cán bộ phòng khách hàng số 2 tại NHCTHK đã hướng dẫn , giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
75 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng công thương HK, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với đặc điểm chung là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, linh hoạt, thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh đầy biến động, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước, trong thời gian qua, loại hình doanh nghiệp này ngày càng phát triển, thể hiện vai trò to lớn trong nền kinh tế xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm , thu hồi vốn nhanh”.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, các DNVVN đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, mà điển hình là khó khăn thiếu vốn. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn rất hạn chế, đặc biệt là tiếp cận vốn ngân hàng. Hầu hết các DNVVN đều có nhu cầu đươc vay vốn ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, chứng tỏ đây là một thị trường đầy tiềm năng nhưng lại chưa được các ngân hàng chú ý.
Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại (trong đó có Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm) hầu như chỉ tập trung đến các khách hàng lớn là các doanh nghiệp nhà nước với quy mô lớn, các Tổng công ty 90, 91 với những món vay có giá trị lớn mà chưa chú trọng đến đối tượng là các DNVVN. Trong khi đó nguồn vốn huy động của NHCTKH là rất dồi dào, đủ khả năng cung cấp cho mọi nhu cầu, mọi đối tượng của nền kinh tế. Vì vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường tín dụng đối với DNVVN thì ngân hàng cần đề ra biện pháp nhằm thu hút những khách hàng này.
Trong thời gian thực tập tại NHCTHK em có tìm hiểu mối quan hệ tín dụng của ngân hàng với các DNVVN và nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề , nên em đã chọn đề tài :” Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK” cho chuyên đề tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một số ý kiến giúp ngân hàng mở rộng thị trường cho vay sang khu vực các DNVVN, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế .
Ngoài mở đầu và kết luận, bài viết gồm ba chương:
Chương 1 : Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNVVN
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN tại NHCTHK
Do phạm vi đề tài rộng , thời gian thực tập có hạn , nhất là trình độ lí luận và sự hiểu biết thực tế không nhiều nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân hàng
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo thạc sĩ Phạm Long cùng các anh chị cán bộ phòng khách hàng số 2 tại NHCTHK đã hướng dẫn , giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Đinh Thị Bích Phượng
CHƯƠNG I:
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
1.1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Một nền kinh tế vững mạnh thì nhất thiết phải có những doanh nghiệp lớn mang tầm vóc quốc gia và quốc tế. Nhưng như vậy thì chưa đủ, các doanh nghiệp lớn không thể tồn tại một mình và vươn tới mọi thị trường để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của con người một cách hiệu quả. Quy luật lợi nhuận và yêu cầu hiệu quả kinh tế làm xuất hiện và tồn tại đồng thời trong quan hệ chặt chẽ với nhau giữa các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ như những lực lượng bổ sung, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển.
Thực tế đã chứng minh vai trò quan trọng không thể thiếu được của các DNVVN trong nền kinh tế. Ngay cả ở những nước phát triển cao với những tập đoàn kinh tế khổng lồ như Mĩ, Nhật Bản thì DNVVN vẫn được coi trọng trong một hệ thống luật lệ nhất quán và khuyến khích phát triển. DNVVN vẫn được coi là nguồn lực quan trọng đảm bảo sức sống cho nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, với xuất phát điểm thấp nền kinh tế đang trong quá trình CNH-HĐH thì việc phát triển DNVVN là rất phù hợp. Bởi đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo ra công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, các DNVVN còn có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành CNH-HĐH đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội.
Nhận thức được điều này nên Nghị định 90 của Chính phủ ngày 23/11/1990 đã khẳng định: “Phát triển DNVVN là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”. Đồng thời trong cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp ngày 14/9/2001 tại Hà Nội Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Cần thấy rằng, DNVVN là loại hình rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng kinh tế, kể cả các nước phát triển. Đối với nước ta việc phát triển DNVVN lại càng phù hợp với bước đầu thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy, phải quan tâm, tạo điều kiện cho DNVVN phát triển “.
Trước hết chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm , đặc điểm cũng như vai trò của DNVVN.
1.1.1.Khái niệm.
Từ trước tới nay, có khá nhiều ý kiến bàn luận về khái niệm DNVVN. DNNNV nếu hiểu theo nghĩa thông thường là những cơ sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ với quy mô không lớn lắm. Tuy nhiên, để có thể nói chính xác thế nào là quy mô không lớn lắm thì có nhiều ý kiến khác nhau. Vì thế, quan niệm và tiêu chí đánh giá doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối và cần phải tiếp tục nghiên cứu. Không có một sự phân loại chung nào được thống nhất trên bình diện quốc tế về những gì cấu thành nên một doanh nghiêp “vừa” và “nhỏ”. Các khái niệm và việc phân loại thay đổi từ nước này qua nước khác, thậm chí thay đổi trong cùng một nước qua các thời kỳ khác nhau.
Hiện nay có nhiều tiêu thức khác nhau để phân biệt DNVVN như số lao động thường xuyên, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng...Trong đó có hai tiêu thức được sử dụng thông dụng và phổ biến là quy mô vốn và số lao động. Ở Việt Nam cũng phân loại doanh nghiệp chủ yếu theo hai tiêu thức là lao động thường xuyên và vốn sản xuất.
Ngày 20/6/1998, Thủ tướng chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KNT về quy định tiêu chí xác định DNVVN: Đó là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động bình quân năm dưới 200 người.
Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp DNVVN. Trong đó đã nêu rõ: “DNVVN là những cơ sở sản xuất độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 ngưòi”. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu trên “.
Theo quy định trong nghị định 90/CP thì các DNVVN bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước: các doanh nghiệp nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/2/2000 của chính phủ về đăng kí kinh doanh
1.1.2 Đặc điểm của DNVVN
1.1.2.1 Những điểm mạnh.
- Năng động, linh hoạt, tự do, sáng tạo trong kinh doanh:
Nhờ quy mô vừa nhỏ, mô hình tổ chức quản lí sản xuất giản đơn nên những doanh nghiệp này rất năng động, linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất kinh doanh, đi vào những ngành nghề khác khi cảm thấy lĩnh vực đó có lợi hơn.
Các DNVVN cũng dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Một lợi thế đáng kể nữa là DNVVN khi chuyển địa điểm sản xuất không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Trong khi đó các DNVVN lại có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực và địa phương. Điều này càng làm cho DNVVN khai thác hết năng lực của mình, đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
- Có thể nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN với yêu cầu vốn bổ sung không nhiều và giảm được thiệt hại trong thay đổi vốn cố định khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác nên DNVVN dễ dàng và nhanh chóng trong việc đổi mới thiết bị công nghệ khi cần thiét.
Trước khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các DNVVN chỉ cần một lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao mà lại thu hồi vốn nhanh. Chính vì vậy mà nó hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này
Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lí ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt , công tác điều hành mang tính trực tiếp. Bộ máy tổ chức của các DNVVN thường đơn giản gọn nhẹ. Các quyết định được thực hiện nhanh, công tác kiểm tra giám sát được thực hiện khá chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian, vì thế mà tiết kiệm được chi phí quản lí doanh nghiệp .
1.1.2.2 Những bất lợi.
- Nguồn tài chính hạn chế
Đây là nhược điểm lớn nhất, dễ thấy nhất và đáng quan tâm nhất của các DNVVN. Trong khi các doanh nghiệp lớn có thể nhận được nhiều các nguồn tài chính khác nhau từ ngân sách nhà nước cấp, từ viện trợ, vốn tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng thì các DNVVN lại gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Bởi lẽ, hơn 90% các DNVVN ở nước ta là thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nên vốn tự có không thể do ngân sách nhà nước cấp được. Hầu hết nguồn vốn ban đầu của DNVVN đều là vốn tự có của chủ doanh nghiệp hay của người thân, bạn bè của họ. Vốn huy động từ bên ngoài như từ các tổ chức tín dụng là rất hạn chế. Phần lớn các ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại không muốn cho DNVVN vay vốn bởi họ chưa có quá trình kinh doanh uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Bởi vậy, quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp này nhỏ bé, hạn chế cũng là điều dễ hiểu.
- Trình độ quản lí yếu kém, tay nghề lao động chưa cao.
Tại các DNVVN, các DNVVN, cán bộ quản lí hay chủ doanh nghiệp đều trưởng thành từ thực tế và kinh nghiệm từ bạn bè, chỉ có một tỷ lệ nhỏ được đào tạo qua các trường lớp chính quy về quản trị doanh nghiệp quản lí kinh tế . Họ thành lập doanh nghiệp chủ yếu do kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động hay do có sẵn mối quan hệ với các kênh cung ứng với thị trường… Có thể thấy các chủ doanh nghiệp này thường yếu về trình độ quản lí điều hành doanh nghiệp theo thói quen, chủ nghĩa gia đình…, kỹ năng chuyên môn và quản lí theo định hướng thị trường hiện đại còn thiếu.
Người lao động trong DNVVN có tay nghề kém, ít qua trường lớp đào tạo, chủ yếu do được truyền nghề, cha truyền con nối… Bình quân số lao động phổ thông, trình độ tay nghề giản đơn, chưa được đào tạo chiếm khoảng 60-70%. Hầu hết người lao động trong các DNVVN là người lao động ở vùng quê nông thôn ít có cơ hội học tập, còn những nguời lao động có trình độ, có tay nghề, được đào tạo từ những trường lớp cao đẳng, đại học, trưòng dạy nghề ra thưòng chỉ làm việc trong một thời gian ngắn để lấy kinh nghiệm rồi sau đó bỏ việc để tìm một vị trí tốt hơn ở doanh nghiệp lớn khác.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém lạc hậu.
Do nguồn vốn nhỏ bé, thông thường các DNVVN chỉ sử dụng những công nghệ trung bình, đơn giản nên năng suất lao động thấp làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp . Rất ít DNVVN được trang bị công nghệ hiện đại trừ khi liên doanh với nước ngoài. Hơn nữa, các DNVVN rất khó có thể vay được một khoản tín dụng trung dài hạn cần thiết để nâng cấp công nghệ. Trong những năm qua, do sức ép của thị trường và những tác động của cơ chế quản lí kinh tế, các DNVVN đã có sự đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định . Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các DNVVN hiện vẫn còn lạc hậu và ở trình độ thấp, hiệu quả chưa cao, đang gặp nhiều khó khăn đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNVVN bị hạn chế rất nhiều.
- Thị trường của DNVVN thường nhỏ bé và không ổn định, lại phải chia sẻ với nhiều doanh nghiệp khác.
Trong những khó khăn trên, nguồn tài chính hạn hẹp là đặc điểm lớn nhất và là nguyên nhân chính dẫn đến các bất lợi khác của DNVVN. Và thực lực kinh tế yếu nên khả năng vay vốn lại càng khó khăn . Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều bất cập , không tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này, trong đó cơ chế chính sách về tín dụng ngân hàng , kể cả những vấn đề cụ thể về nghiệp vụ ngân hàng còn đang cản trở việc vay vốn của các DNVVN. Do vậy, các DNVVN còn đang gặp nhiều khó khăn và chưa được hỗ trợ nhiều từ phía nhà nước như những doanh nghiệp khác.
1.1.3. Vai trò.
DNVVN đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế . Cùng với những lợi thế là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, quản lí dơn giản , dễ thay đổi linh hoạt theo thị trường, các DNVVN đã và đang phát huy những mặt tích cực và khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế. Vai trò to lớn của DNVVN thể hiện ở các mặt sau:
- DNVVN góp phần tạo ra việc làm cho người lao động.
Đây là một ưu điểm của DNVVN và là một trong những nguyên nhân chính khiến Đảng và Nhà nước phải đặc biệt quan tâm đến việc phát triển DNVVN ở nước ta hiện nay. Các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển có số lượng lớn các DNVVN, loại hình doanh nghiệp này giải quyết việc làm cho khoảng 70% lực lượng lao động.
Ở nước ta, việc làm vẫn đang là vấn đề cấp bách cần giải quyết . Mặc dù chính phủ và địa phương đã có những cố gắng trong việc giảm dân số cũng như tạo việc làm nhưng nhu cầu về việc làm vẫn tăng lên khoảng 3 triệu người mỗi năm. Họ có thể là những người mới gia nhập vào lực lượng lao động cũng có thể là những người lao động dư ra từ quá trình sắp xếp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hay người lao động từ nước ngoài trở về. Số lượng này vẫn ngày một tăng lên trong khi đó khả năng thu hút lao động mới vào các doanh nghiệp mới rất hạn chế. Vì vậy, một việc làm tại các DNVVN sẽ là một giải pháp tốt cho người lao động.
- DNVVN có thể tận dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả. Đó là các nguồn lực: nguồn vốn, nguồn nhân lực, nguồn nguyên vật liệu
Vốn là một nhân tố cơ bản trong quá trình sản xuất và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế . Dường như khi nền kinh tế đang thiếu vốn thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân còn rất nhiều. Sự ra đời và phát triển của DNVVN với nhiều loại hình như DNNN, công ty tư nhân , công ty cổ phần, công ty TNHH, …đã khơi dậy được rất nhiều khoản vốn đang nằm phân tán trong dân cư. Do quy mô vừa và nhỏ, dễ đi sâu vào các vùng, miền, hơn nữa yêu cầu về số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNVVN tỏ ra rất hiệu quả trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ , nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Tuy lượng vốn thu hút vào mỗi doanh nghiệp ít nhưng do số lượng DNVVN khá lớn nên tổng lượng vốn thu hút vào kinh doanh ngày càng tăng , góp phần tăng cường đầu tư phát triển kinh tế , xã hội.
Về nguồn nhân lực và nguyên vật liệu cũng là những yếu tố cơ bản của một doanh nghiệp. Các DNVVN có thể huy động các nguồn nhân lực nguyên nhiên vật liệu ngay tại từng địa phương đưa vào sản xuất, phát triển kinh tế vùng, khai thác hợp lí có hiệu quả những nguồn lực sẵn có tại chỗ.
-Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta, đặc biệt là khu vực nông thôn.
Sự phát triển của các DNVVN đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta, đặc biệt với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát triển , xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh ở nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN cũng góp phần làm tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Phát triển các DNVVN còn có tác dụng làm chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, thành phần kinh tế . Các doanh nghiệp này chủ yếu là kinh tế ngoài quốc doanh được tăng lên nhanh chóng làm cân đối các thành phần kinh tế . Ngoài ra, các doanh nghiệp còn được phân bố đều khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi. Như vậy, sự linh hoạt, năng động của các DNVVN đã hình thành một cơ cấu kinh tế có tính đổi mới và thích ứng với nền kinh tế , tạo nên một cơ cấu ngành , thành phần , vùng hợp lí
-Đáp ứng nhu cầu về hàng hoá dịch vụ đa dạng của nền kinh tế
Các DNVVN hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, từ sản xuất công nghiệp , đến xây dựng , thương mại , dịch vụ, thủ công mĩ nghệ. Do quy mô vừa nhỏ, các DNVVN có thể tồn tại ở khắp nơi, kể cả vùng nông thôn , vùng sâu vùng xa hay nó có thể hoạt động trong những lĩnh vực , những nơi mà mà các doanh nghiệp lớn còn bỏ ngỏ. Do vậy, nó sản xuất ra nhiều mặt hàng , ở rất nhiều nơi , đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng , sản xuất của mọi người dân, mọi ngành nghề.
-Đóng góp một phần đáng kể vàp tăng trưởng kinh tế của cả nước
DNVVN là bộ phận có đóng góp không nhỏ vào GDP cả nước. Theo số liệu thống kê mỗi năm DNVNN đóng góp khoảng 26-27% GDP cả nước. Đây là một con số rất có ý nghĩa, chứng tỏ các DNVVN đóng góp một phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân và nếu khu vực này được quan tâm hỗ trợ đúng mức của Nhà nước , của các tổ chức kinh tế xã hội thì khả năng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế xã hội còn lớn hơn nữa.
-Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường.
Do lợi thế của quy mô vừa và nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, các DNVVN có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh , đổi mới công nghệ, trang thiết bị… Đồng thời lượng DNVVN khá lớn , ngày càng tăng làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng chất lượng, số lượng, chủng loại hàng hoá dịch vụ. Do đó, nó làm cho nền kinh tế năng động hơn, chuyển biến nhanh nhạy, đáp ứng kịp thời những thay đổi của nền kinh tế trong nước, đồng thời hoà nhịp được với sự biến động, phát triển của nền kinh tế thế giới.
1.2 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .
1.2.1 Sự hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng , đến lượt mình , sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng . Hình thức ngân hàng đầu tiên – ngân hàng của những thợ vàng , hoặc của những kẻ cho vay nặng lãi – thực hiện cho vay với các cá nhân , chủ yếu là những người giàu như quan lại , địa chủ … nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng . Do lợi nhuận từ cho vay rất cao , nhiều chủ ngân hàng đã lợi dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi ( lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để vay . Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán . Hơn nữa , lãi suất cao nên không thể sử dụng nguồn vay này. Trước tình hình đó , nhiều nhà buôn tự thành lập ngân hàng , gọi là ngân hàng thương mại . Như vậy ngân hàng thương mại được hình thành xuất phát từ tư bản thương nghiệp , và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi , thanh toán . cất giữ hộ và cho vay .
Tuy nhiên , điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng thợ vàng trước đó là ngân hàng thương mại chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn , dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. Để đảm bảo an toàn , ngân hàng thương mại ban đầu không cho vay đối với người tiêu dùng, không cho vay trung và dài hạn, không cho vay đối với