Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tếlà một xu hướng nổi trội và do đó đã trởthành
môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thếgiới.
Toàn cầu hóalà khái niệm dùng đểmiêu tảcác thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tếthếgiới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổchức hay các cá nhân ởgóc độvăn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu.
Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng đểchỉcác tác động
của thương mại nói chung và tựdo hóa thương mại hay "tựdo thương mại" nói riêng.
Cũng ởgóc độkinh tế, người ta chỉthấy các dòng chảy tưbản ởquy mô toàn cầu kéo
theo các dòng chảy thương mại, kỹthuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thếkỷthứ15, sau khi
có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng
quanh thếgiới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng nhưviệc xuất
hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ
không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi vềhàng hoá vật chất, một số
giống cây cũng được đem trồng từvùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng
hạn nhưkhoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹthuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽcó nhiều lịch sử
khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tếhọc và kinh tếchính trịhọc,
toàn cầu hoá chỉlà lịch sửcủa việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước
dựa trên những cơsở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với
nhau một cách trơn tru nhấ
51 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhân sự cho FIS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NHÂN SỰ
1.1 Lý thuyết về chiến lược toàn cầu hóa định hướng dịch vụ
1.1.1 Chiến lược toàn cầu hóa:
Hiện nay, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở thành
môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi toàn thế giới.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu.
Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động
của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng.
Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo
theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi
có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng
quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất
hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ
không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số
giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng
hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử
khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị học,
toàn cầu hoá chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước
dựa trên những cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với
nhau một cách trơn tru nhất.
Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị
trường tự do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Điều
này dẫn tới sự chuyên môn hoá không ngừng của các nước trong lĩnh vực xuất khNu,
cũng như tạo ra áp lực chấm dứt hàng rào thuế quan bảo hộ và các rào cản khác. Thời
kỳ bắt đầu dùng vàng làm tiêu chuNn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá
trong thế kỷ thứ 19 thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn cầu hoá".
2
Cùng với thời kỳ bành trướng của đế quốc Anh (Pax Britannica) và việc trao đổi hàng
hoá bằng các loại tiền tệ có sử dụng tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn công
nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và
luật cân bằng chung của Jean-Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi
thương mại một cách hiệu quả, và bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng
sẽ tự động được điều chỉnh. Việc thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công nghiệp
hoá chính khoảng giữa năm 1850 và năm 1880, mặc dù chính xác khi nào các nước
này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh cãi.
"Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng
vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930.
Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã
tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình
tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại
do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các
hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán
Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm
giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác,
bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào
cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ
rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các
phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính
thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20.
Theo GS Văn Như Cương trong bài viết “Toàn cầu hóa, được và mất”, Tạp chí Trí tuệ
5/2006 thì Toàn cầu hóa về bản chất là sự mở rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc
gia, một mong muốn hiển nhiên của những quốc gia có nền kinh tế mạnh hơn, sản xuất
được nhiều hàng hóa hơn so với các nước khác.
3
Trong giới hạn luận văn này, căn cứ theo điều kiện phát triển của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay, Toàn cầu hóa về bản chất là sự mở rộng thị trường ra ngồi biên
giới quốc gia, một mong muốn hiển nhiên của những quốc gia của nền kinh tế mạnh
hơn, sản xuất được nhiều hàng hóa hơn so với các nước khác. Là quá trình chuyển
dịch đến một nền kinh tế thế giới hợp nhất và phụ thuộc lẫn nhau, nền kinh tế thế giới
không chỉ là một sự hợp nhất các thị trường một cách giản đơn mà là một hệ thống các
thị trường tương tác lẫn nhau. Quy luật muôn đời vẫn là: có thị trường rộng lớn hơn,
có nhiều khách hàng hơn thì lợi nhuận càng cao hơn. Vậy chiến lược toàn cầu hóa là
gì? Các công ty , các doanh nghiệp phải lựa chọn những chiến lược nào để có thể tồn
tại và phát triển.
1.1.2 Chiến lược toàn cầu hoá định hướng dịch vụ.
Các công ty công nghệ thông tin khi thực hiện chiến lược toàn cầu hoá thường
có hai con đường để lựa chọn, một là sản xuất các thiết bị tin học để cung cấp cho thị
trường; hai là cung cấp các dịch vụ về công nghệ thông tin và viễn thông, một thị
trường đang ngày càng phát triển và mở rộng.
Đối với các công ty công nghệ thông tin ở Châu Á nói chung và Việt Nam nói
riêng, hướng đi thứ hai thường được lựa chọn vì nó đặc biệt phù hợp với khả năng và
trình độ phát triển cũng như hạ tầng cơ sở tại các nước này.
Trước khi bàn kỹ hơn về các hướng đi, chúng ta cần phân biệt một số khái niệm
thường gặp khi nói về việc cung cấp Dịch vụ cho các công ty bên ngoài: Offshoring,
Captive Offshoring, Outsourcing, Offshore Outsourcing và Body – shopping.
Xét từ góc độ công ty chuyển việc, Offshoring là hành động chuyển một công
việc từ một nước A sang một nước B khác. Công ty nhận việc ở nước B có thể được
sở hữu bởi chính công ty ở nước A (Captive offshoring), hoặc là công ty được
outsourced. Outsourcing là hành động chuyển việc từ một công ty X sang một công ty
Y khác. Công ty B có thể ở cùng trong nước hoặc ở nước ngoài (on – shore or off –
shore). Khi công ty B ở nước ngoài, hành động chuyển việc đó được gọi là Offshore –
outshourcing.
4
Xét từ góc độ công ty nhận việc, Offshorcing là nhận một công việc từ khách
hàng nước ngoài và làm tại nước mình. Body – shopping là cử người sang làm onsite
cho khách hàng.
Một ví dụ điển hình về việc thực hiện chiến lược toàn cầu hoá định hướng dịch
vụ là công ty INFOSYS, xu hướng chủ yếu của công ty này là Offshoring thay thế cho
Body – shopping. Cũng như các công ty cung cấp dịch vụ IT, trong những năm đầu
phát triển, Infosys đi theo xu hướng chung là bắt đầu từ việc Body – shopping (bán
người). Tuy nhiên, sau một thời gian, Infosys là một trong những công ty đầu tiên tại
Ấn Độ định hướng lại chiến lược từ onsite body – shopping sang offshore
development centers (ODCs). Infosys đã sớm nhận thức được một trong những bất lợi
lớn nhất của việc làm body – shopping là mất lợi thế về giá. Đặc điểm của body –
shopping là gửi người ra nước ngoài làm dự án của khách hàng. Khi ấy, chi phí sẽ đắt
hơn là làm tại nước sở tại do không còn lợi thế về giá nhân công (khi tính giá onsite
phải tính cả chi phí đi lại, ăn ở ở nước ngoài). Body – shopping còn làm nảy sinh các
vấn đề liên quan đến việc xin visa cho cán bộ sang nước khác làm việc dài hạn, một
việc không hề đơn giản, đặc biệt là ở Mỹ – nơi cung cấp nguồn việc outsourcing rất
lớn trên thế giới. Ngoài các lý do trên, các công ty nói chung không muốn làm body –
shopping vì mô hình này không thực sự hiệu quả về mặt kinh tế và sự phát triển đồng
đều của các cá nhân trong tổ chức. Hầu hết khách hàng sẽ yêu cầu người giỏi nhất
sang làm, trong khi cùng một người đó ở nhà lãnh đạo một đội làm dự án có thể mang
lại hiệu quả kinh tế nhiều hơn mình người đó đi làm onsite. Bên cạnh đó, body –
shopping thường dẫn đến việc người giỏi hơn lại có thêm cơ hội tích luỹ thêm kinh
nghiệm, trong khi những người kém hơn và ít kinh nghiệm hơn thì lại không có nhiều
cơ hội thực hành, cọ xát, nâng cao nghiệp vụ ...
Việc làm offshoring (nhận việc của khách hàng nước ngoài về làm trong nước)
vì vậy không chỉ mang lại lợi ích về giá cả cho chính khách hàng mà còn giúp cho các
thành viên trong nhóm, cả người cũ và mới, giỏi hơn và yếu hơn, cùng học hỏi và phát
triển. Tuy nhiên, khi làm offshoring, thực chất các công ty phần mềm là những người
điều khiển dự án chứ không phải khách hàng, một rủi ro mà khách hàng không muốn
có. Hiểu được điều này, để chuyển hướng sang mô hình offshoring, Infosys đã củng cố
5
lòng tin của khách hàng bằng cách tập trung vào chất lượng và qui trình trong việc
phát triển sản phNm, đảm bảo sản phNm làm ra có chất lượng tốt, ổn định và ít rủi ro
hơn cho các khách hàng ở nước ngoài.
Quyết định chuyển từ một công ty dựa chủ yếu vào việc bán sản phNm
(products based company) sang công ty cung cấp dịch vụ là chủ yếu (service-led
company) được coi là một trong những chiến lược quan trọng nhất trong lịch sử phát
triển của IBM. Quyết định này của cựu CEO Louis V.Gerstner đã góp phần đưa IBM
từ một công ty trên bờ vực phá sản năm 1993 lấy lại vị trí là công ty IT lớn nhất thế
giới hiện nay.
Cuốn tự truyện “Who says elephants can’t dance?” của Gerstner có nêu các lí
do chính cho việc thay đổi chiến lược này. Trước hết tính kinh tế của một công việc
kinh doanh dịch vụ rất khác với việc kinh doanh dựa vào sản phNm. Một hợp đồng
cung cấp dịch vụ lớn (major services contract) ký với khách hàng có thể mang lại lợi
nhuận 6-12 năm. Tuy nhiên, một hợp đồng nhận làm thuê lại cho một công ty A khác
(outsourcing contract), cứ cho là trong 7 năm, có thể mất tiền ngay trong năm đầu tiên
(do có nhiều rủi ro hơn là khách hàng hay chính công ty A này có thể dừng hợp đồng
sau khi công ty được outsource đã huy động đủ nguồn lực và đầu tư cơ sở vật chất, văn
phòng máy móc...)
Một lý do khác nữa là khách hàng đang đầu tư rất nhiều vào dịch vụ IT do họ
không có đủ người để tự làm và cũng không đủ khả năng để làm hết. Với xu hướng thế
giới hướng về mô hình máy tính mạng lưới (networked computing model – nơi rất
nhiều thiết bị khác nhau như máy tính cá nhân, ti vi thông minh, các thiết bị cầm tay,
điện thoại ... được liên kết vào cùng một mạng lưới), khách hàng rất cần người tích
hợp các công nghệ với qui trình kinh doanh của họ, và giữa các qui trình kinh doanh
với nhau. Bên cạnh đó, ngành IT phân mảnh (disaggregrate), ngày càng có nhiều công
ty chỉ cung cấp các sản phNm, dịch vụ chuyên sâu, chuyên biệt (niche players) thay vì
giải pháp tổng thể càng làm cho khách hàng cần có người tích hợp hệ thống hơn bao
giờ hết.
Ngoài ra, khi khách hàng cần nhà tích hợp để thiết kế, xây dựng giải pháp tổng
thể, chính công ty SI sẽ có ảnh hưởng cực kỳ to lớn tới các quyết định liên quan đến
6
công nghệ của khách hàng (từ cấu trúc hệ thống đến các ứng dụng, từ việc chọn phần
cứng đến phần mềm...). Lúc này, thực ra chính các công ty cung cấp dịch vụ chứ
không phải các công ty công nghệ (tech firms) gây ảnh hưởng đến quyết định mua của
khách hàng nữa.
Một trong những xu hướng khác trong chiến lược toàn cầu hoá định hướng dịch
vụ là chuyển từ các dịch vụ cấp thấp sang các dịch vụ cao cấp hơn. Dịch vụ cấp thấp ở
đây được định nghĩa là những công việc về IT Implementation và IT Management
(Triển khai và quản lý hệ thống IT). Các công việc này liên quan đến việc triển khai
các giải pháp đã được thiết kế sẵn, hay/và chỉ đơn giản là bảo trì hệ thống đã được
triển khai. Các dịch vụ cấp cao bao gồm lập chiến lược và thiết kế hệ thống IT (IT
Strategy và IT Design).
Đây là hướng đi rất thú vị vì đó là điểm những công ty lớn toàn cầu như
Accenture, IBM và các công ty nhận outsourcing như Infosys sẽ xích lại gần nhau trên
chuỗi giá trị IT (IT Value Chain). Một chuyên gia về Marketing đã nhận xét xu hướng
này như sau: “IBM và Accenture cung cấp các dịch vụ gia tăng cao cấp hơn và giải
pháp tổng thể nhưng chỉ tập trung ở một số khu vực địa lý nhất định. Infosys cung cấp
nhiều dịch vụ cấp thấp hơn nhưng trải dài ở nhiều vùng địa lý hơn với mô hình Global
Delivery Model. Khách hàng không muốn chọn giữa giải pháp tổng thể và giá rẻ hơn.
Họ muốn các nhà cung ứng có cả hai yếu tố trên, vì vậy cả hai dạng công ty trên đều
phải cố gắng lấp khoảng trống mà mình có để có thể trở thành nhà cung ứng được
khách hàng ưa chuộng. Accenture đang cố gắng thêm các dịch vụ offshoring và mô
hình GDM, còn Infosys thì đang cố gắng cung cấp dịch vụ tư vấn và các giải pháp
tổng thể cho khách hàng”.
Trong cuộc chiến này giữa hai dạng công ty này vẫn chưa biết bên nào thắng,
thua. Có ý kiến cho rằng uy tín thương hiệu (brand identity) của các công ty Ấn Độ
chưa đủ để khách hàng tin tưởng giao cho các dự án tư vấn lớn. Tuy nhiên bên cạnh nỗ
lực tạo thương hiệu cho mình, Unisys cho rằng việc họ thêm vào mô hình tổ chức toàn
cầu một lớp các nhà tư vấn thì dễ hơn nhiều so với việc các công ty tư vấn toàn cầu
như IBM và Accenture tạo ra dịch vụ nhận làm offshoring. Hơn nữa, công việc
7
offshoring này sẽ ảnh hưởng tới công việc onsite và các nhân viên hiện có của các
công ty toàn cầu này.
1.2 Tổng quan về hoạt động Công ty Hệ thống thông tin FPT
1.2.1 Giới thiệu sơ lược về Công ty Hệ thống thông tin FPT.
Công ty Hệ thống thông tin FPT là công ty thành viên của Công ty CP Đầu tư
công nghệ FPT. Nhằm phối hợp hiệu quả và huy động tối đa nguồn lực để phục vụ
khách hàng, FPT-IS bố trí mô hình 7 công ty thành viên, và 3 trung tâm, chuyên sâu
theo các lĩnh vực kinh doanh và lĩnh vực công nghệ. (Hình 1.1)
Công ty TNHH Hệ thống Thông tin Ngân hàng – Tài chính FPT
Công ty TNHH Hệ thống Thông tin FSE FPT
Công ty TNHH Hệ thống Thông tin Viễn thông và Dịch vụ Công FPT
Công ty TNHH Giải pháp Tài chính công FPT
Công ty TNHH Phát triển phần mềm FPT
Công ty TNHH Dịch vụ Hệ thống Thông tin FPT
Công ty TNHH Dịch vụ ERP FPT
Trung tâm Phát triển Thương mại Toàn cầu
Trung tâm Hạ tầng Công nghệ Thông tin
Trung tâm Dịch vụ BPO
Đảm bảo hoạt động cho các công ty thành viên và trung tâm là 9 ban chức năng
phụ trách các mảng công việc: Tài chính, Nhân sự, Kế hoạch kinh doanh, Chất lượng,
Hành chính, Truyền thông, Thông tin, Hồ sơ Thầu và Pháp chế, Hoạt động phong trào.
Nhân sự :
Sơ đồ tăng trưởng nhân sự như hình 1.2, Với nhân sự gần 1844 người (số liệu
tháng 3/2008), FPT-IS có thể huy động nguồn lực đông đảo trong thời gian ngắn. Các
kỹ sư của công ty học hỏi nhanh những công nghệ mới và trong hơn mười năm qua,
đội ngũ chuyên gia nòng cốt đã tích lũy kinh nghiệm thực tế qua hàng trăm dự án lớn
nhỏ được triển khai hàng năm.
8
Hình 1.1 – Sơ đồ tổ chức Công ty Hệ thống thông tin FPT
(nguồn
Hình 1.2 – Tăng trưởng nhân sự của FIS từ 2003 –2007
(nguồn
9
Lĩnh vực họat động của FIS:
Tích hợp các hệ thống hạ tầng thông tin:
Hệ thống mạng
Hệ thống bảo mật
Hệ thống lưu trữ
Hệ thống trung tâm dữ liệu
Hệ thống dự phòng và phục hồi sau thảm họa
Giải pháp tòa nhà thông minh
Cung cấp các sản phNm phần mềm cho các lĩnh vực:
o Tài chính ngân hàng
o An ninh quốc phòng
o Bưu chính - Viễn thông
o Chính phủ điện tử
o Doanh nghiệp
o Giáo dục
o Y tế
o Giao thông vận tải
o Cung cấp các dịch vụ:
o Tư vấn hệ thống thông tin
o Bảo hành bảo trì hệ thống thông tin
o Các dịch vụ dữ liệu GIS
o Contact center
o Data center
o eProcess
o SMS
o PO
10
Doanh thu:
Tăng đều đều từng năm, năm 2008 868 triệu USD, hình 1.3. FIS đang phấn đấu
đạt mức doanh thu 1 tỷ USD.
Hình 1.3 – Doanh thu FIS từ 2000 – 2007 (triệu USD)
(nguồn
1.2.2 Chiến lược toàn cầu hóa định hướng dịch vụ của công ty FPT
1.2.2.1 Phân tích S.W.O.T cho Công ty Hệ thống thông tin FPT.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc mở cửa, giao lưu kinh tế - văn hóa
với các nước là điều không thể tránh khỏi và rủi ro trên thương trường đối với các
doanh nghiệp cũng không nhỏ. Phân tích SWOT sẽ giúp “cân - đong – đo - đếm” một
cách chính xác trước khi quyết định thâm nhập thị trường quốc tế.
Phân tích SWOT là một trong 5 bước hình
thành chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp
bao gồm: xác lập tôn chỉ của doanh nghiệp, phân
tích SWOT, xác định mục tiêu chiến lược, hình thành
các mục tiêu và kế hoạch chiến lược, xác định cơ chế
kiểm soát chiến lược. Nó không chỉ có ý nghĩa đối
với doanh nghiệp trong việc hình thành chiến lược
kinh doanh nội địa mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành chiến lược kinh
doanh quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một khi doanh
nghiệp muốn phát triển, từng bước tạo lập uy tín, thương hiệu cho mình một cách chắc
11
chắn và bền vững thì phân tích SWOT là một khâu không thể thiếu trong quá trình
hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.1.1 Những điểm mạnh của Công ty hệ thống thông tin FPT là:
• Là một trong những công ty cung cấp giải pháp và dịch vụ Công nghệ thông tin
dẫn đầu Việt Nam.
• Đội ngũ đông đảo nhân viên được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp tại các trường
đại học danh tiếng trong và ngoài nước (Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Singapore,
CHLB Nga, Hungary, Bungary…). Ngoài ra, với chính sách đào tạo, nâng cấp
thường xuyên về công nghệ và giải pháp, các chuyên gia của FPT-IS liên tục được
đào tạo trong quá trình làm việc. Các cán bộ công nghệ của công ty sở hữu hơn
1000 chứng chỉ quốc tế của các hãng cung cấp giải pháp và dịch vụ hàng đầu thế
giới như: IBM, HP, Cisco, Microsoft, Oracle, SAP, ArInfo, Diebold, Checkpoint,
Netscreen…. Đặc biệt, công ty đang sở hữu 7 chứng chỉ cao cấp nhất của Cisco
trong lĩnh vực công nghệ mạng (CCIE – Cisco Certified Internetwork Experts) trên
cả hai lĩnh vực Chuyển mạch (Routing & Switching) và An ninh mạng (Security)
• Sản phNm phong phú, chất lượng cao, dịch vụ trọn gói.
• Đối tác chiến lược của hầu hết các nhà cung cấp sản phNm công nghệ thông tin lớn
nhất thế giới: là công ty tin học duy nhất tại Việt nam là đối tác vàng của bốn hãng
công nghệ thông tin hàng đầu thế giới về công nghệ mạng, hệ thống, phần mềm và
bảo mật là: Cisco, Microsoft, Oracle, Checkpoint.
• Khách hàng lớn: FPT-IS là công ty tin học có thị phần lớn nhất tại Việt nam và có
hệ thống khách hàng lớn, trải đều trên các lĩnh vực như an ninh quốc phòng, các cơ
quan chính phủ, giáo dục, viễn thông, tài chính, kế toán, ngân hàng, giao thông vận
tải... Không chỉ nhắm đến các khách hàng trong nước, FPT-IS còn mong muốn mở
rộng thị trường và phát triển kinh doanh tại các nước trong khu vực và trên thế
giới. FPT-IS đã tham gia vào những dự án lớn có vốn đầu tư, tài trợ của nước ngoài
tại Việt nam và xây dựng thành công nhiều hệ thống thông tin như Giải pháp xử lý
ảnh số cho việc xây dựng bản đồ địa hình Quốc gia Lào, hệ thống xử lý dữ liệu
trung tâm và quản lý bảo trì thiết bị cho Nhà máy điện Elbistant Site – Thỗ Nhĩ
12
Kỳ…. Hiện nay, hệ thống khách hàng của FPT-IS đã mở rộng ra các nước khác
trong khu vực như Malaysia, Thailand, Singapore, Nhật Bản …
1.2.2.1.2 Các điểm yếu:
• Doanh thu chủ yếu do cung cấp và lắp đặt thiết bị tin học, dẫn đến lợi nhuận chưa
cao.
• Bộ máy quản lý và nhân viên phát triển quá nhanh chưa tinh giản, gọn nhẹ.
• Việc đa dạng hóa trong lĩnh vực kinh doanh cũng như tốc độ phát triển nhanh
chóng của Công ty có thể dẫn đến những khó khăn trong