Bắt đầu từ năm 2001, Chính Phủ Việt Nam ban hành chính sách lắp ráp xe ô tô trong nước và Luật Đầu Tư nước ngoài đồng thời thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Kể từ đó các doanh nghiệp trong nước đã có chiến lược và mạnh dạn đầu tư lắp ráp ô tô theo mô hình CKD như ô tô Trường Hải,
71 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô của Giadico, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ năm 2001, Chính Phủ Việt Nam ban hành chính sách lắp ráp xe ô tô trong nước và Luật Đầu Tư nước ngoài đồng thời thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Kể từ đó các doanh nghiệp trong nước đã có chiến lược và mạnh dạn đầu tư lắp ráp ô tô theo mô hình CKD như ô tô Trường Hải, Nhà máy sản xuất ô tô 3/2, Công Ty CP Cơ Khí Ô Tô Thống Nhất Thừa Thiên Huế, Công Ty Cơ Khí Ngô Gia Tự, và cũng kể từ đó các dự án đầu tư nước ngoài đã hình thành và đi vào hoạt động tại Việt Nam dưới dạng liên doanh như: Mercedes-benz Việt Nam, Mekong, Toyota Việt Nam, Ford Việt Nam… với tổng số vốn đều tư hàng chục đến hàng trăm triệu đô la.
Một vấn đề mà các doanh nghiệp lắp rắp ô tô trong nước hiện đang tập trung giải quyết đó là làm thế nào để mở rộng thị trường còn tương đối nhỏ bé như hiện nay. Vừa phải cạnh tranh với các hãng trong nước lại vừa cạnh tranh với các liên doanh nước ngoài chưa tính đến yếu tố nhập lậu ô tô.
Đây là một vấn đề rất khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước. Vấn đề này không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của từng doanh nghiệp sản xuất ô tô tại Việt Nam mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan như tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thu nhập quốc dân/đầu người, mức độ phát tiển của hệ thống giao thông đường bộ Việt Nam, các chính sách chế độ của chính phủ trong việc khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng loại mặt hàng ô tô, chính sách nội địa hóa sản phẩm, giảm giá thành, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà Nước, việc phát triển xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Trên cơ sở nhận biết tầm quang trọng của tiêu thụ sản phẩm bằng những kiến thức đã học, nghiên cứu tại trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Tp. HCM và qua quá trình làm việc tại Công ty CP DV-TM Ô Tô Gia Định V.N, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô của Giadico” làm khóa luận tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về thị trường và hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, làm rõ các biện pháp và nguyên tắc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Phân tích, đánh giá hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty Giadico trên cơ sở nghiên cứu thị trường ô tô tìm ra sự biến động, các nhân tố ảnh hưởng trong thời gian qua đến hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ ô tô trong nước xuất khẩu cho công ty Giadico trong tương lai.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng là các nhân tố khách quan có ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường bao gồm các yếu tố: mức cầu của thị trường ô tô Việt Nam, môi trường kinh doanh, các chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà Nước và các chính sách, chiến lược chủ yếu của Giadico liên quan đến hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ tại Việt Nam thời gian qua.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ô tô của Giadico trong 3 năm gần đây (2007-2009), dự báo các yếu tố mới ảnh hưởng đến hoạt động này trong thời gian tới, đưa ra các giải pháp hữu hiệu giúp cho công ty thực hiện tốt hoạt động mở rộng thị trường tiêu thụ trong những năm tới.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài sử dụng các phương chủ yếu như: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp.
Đóng góp của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết đối với công ty Giadico là làm thế nào để mở rộng được thị trường tiêu thụ của họ trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt giữa 14 liên doanh ô tô tại Việt Nam và nhiều công ty sản xuất lắp ráp ô tô Việt Nam, vì vậy khóa luận đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng thị trường ô tô cho Giadico trên cơ sở phân tích đánh giá một cách xác thực hoạt động mở rộng thị trường của các công ty lắp ráp ô tô trong nước hiện nay. Đặc biệt là phân tích được các nguyên nhân, nêu ra được những hạn chế, vướng mắc trong công tác mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước cũng như chính sách xuất khẩu ô tô trong thời gian tới.
Kết cấu của đề tài
Khoá luận đi sâu phân tích đánh giá thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường của công ty trong một số năm gần đây, qua đó xác định được những thành tựu đạt được cũng như những khuyết điểm và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường của công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề về thị trường và mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình hoạt động kinh doanh của Giadico
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Giadico.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
Một số vấn đề cơ bản về thị trường
Khái niệm thị trường
Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với nền kinh tế hàng hóa, là một khâu của quá trình sản xuất, được mở rộng cùng với sự mở rộng của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Theo K. Mác: Hàng hóa là sản phẩm được các nhà sản xuất làm ra không phải để cho bản thân họ tiêu dùng mà để bán. Hàng hóa được bán tại không gian và thời gian nhất định trên thị trường. Ngày nay cùng với sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa tính không gian và thời gian đã dần bị đẩy lùi vào lịch sử. Các hoạt động mua bán trên thị trường ngày càng phát triển ở trình độ cao. Việc mua bán hàng hóa trên thị trường diễn ra phức tạp, hình thức đa dạng phong phú đòi hỏi có cách nhìn nhận mới về thị trường. Theo định nghĩa của các nhà khoa học hiện đại thì thị trường là tổng hợp các quan hệ kinh tế trong việc mua, bán hàng hóa dịch vụ. Từ các góc độ khác nhau của thị trường người ta có các quan điểm khác nhau về thị trường.
Theo nhà kinh tế Samuelson: “ Thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng”.
Theo nhà kinh tế học David Begg: “ Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả”.
Hai quan niệm trên phù hợp với bản chất thị trường trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền sản xuất và lưu thông hàng hóa đã phát triển đến trình độ cao. Mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu thụ được thể hiện qua mâu thuẫn giữa sản xuất và thị trường. Những khó khăn ngày càng tăng trong khâu bán hàng là yếu tố khách quan buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên việc nghiên cứu sâu sắc về thị trường.
Có nhiều quan niệm khác nhau nữa về thị trường nhưng còn phụ thuộc vào từng lĩnh vực, từng loại hàng hóa mà chúng ta có thể xem xét đánh giá theo khía cạnh, phương diện nào để hiểu được các quy luật hoạt động đặc thù của thị trường đó. Vì vậy việc nghiên cứu thị trường nói chung và nghiên cứu thị trường đặc thù cho một nhóm hoặc một loại hàng hóa nào đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hoạch định chính sách, chiến lược hoạt động của công ty:
- Coi trọng khâu tiêu thụ
- Bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có thể làm ra.
- Tổ chức nghiên cứu tỉ mỉ về thị trường loại mặt hàng định sản xuất, các phản ứng linh hoạt kịp thời sẽ xảy ra trong tương lai trước sự tác động ảnh hưởng của thị trường.
Các yếu tố cấu thành thị trường
Thị trường muốn hình thành phải hội đủ các điều kiện sau:
Trên thị trường hoạt động mua bán được diễn ra thông qua hai chủ thể chính đó là người mua và người bán, người mua sẽ hình thành nên sức cầu thị trường và người bán sẽ hình thành sức cung thị trường và người bán hàng hóa cho người mua phải được bồi thường thoả đáng. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường làm xuất hiện thêm các trung gian khác như người mua giới, đại lý phân phối, các đối thủ cạnh tranh, thuế, hải quan, hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, sản xuất. Trên thị trường, Nhà nước tham gia trên thị trường với tư cách là hộ tiêu dùng đặc biệt và đồng thời là người đề ra và thực hiện các công cụ quản lý kinh tế.
Cung trên thị trường: Cung là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người bán có khả năng bán và sẵn sàng bán ở mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định. Số lượng hàng hóa được cung ứng ra trên thị trường trong khoản thời gian nhất định tuân theo quy luật cung. Cung của một loại hàng hóa nào đó còn bị tác động bởi các yếu tố sau:
- Phụ thuộc vào giới hạn khả năng sản xuất của nền kinh tế
- Phụ thuộc giá cả các yếu tố đầu vào
- Phụ thuộc vào kỳ vọng của người sản xuất
- Phụ thuộc vào các chính sách thuế quan, xuất nhập khẩu.
Cầu thị trường là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua trong khoảng thời gian nhất định. Khi giá cả hàng hóa thay đổi thì quy luật cầu sẽ phát huy tác dụng. Cầu của một loại hàng hóa nào đó phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Mức thu nhập của dân cư
- Thị hiếu của người tiêu dùng
- Giá cả của các lại hàng hoá thay thế, bổ sung
- Các kỳ vọng của người tiêu dùng
Giá cả hàng hóa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa trên thị trường. Giá cả hàng hóa thay đổi xoay quanh giá trị của nó và được hình thành nên bởi tác động của quy luật cung cầu và một số các nhân tố khác như: Quy luật lưu thông tiền tệ, giá trị thực tế của đồng tiền sử dụng làm phương tiện thanh toán trên thị trường và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa đó.
Vai trò và các chức năng của thị trường
Vai trò
Vai trò của thị trường rất quan trọng đối với sản xuất kinh doanh hàng hoá và quản lý kinh tế. Thị trường được coi là phạm trù trung tâm vì qua đó các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lưu thông hàng hóa qua hệ thống giá cả. Thị trường chỉ mất đi sản xuất hàng hóa không còn, điều này cho thấy sản xuất là chiếc cầu nối của sản phẩm và tiêu dùng. Vậy thị trường không chỉ là mơi diễn ra các hoạt động mua và bán mà nó còn thể hiện quan hệ hàng hóa tiền tệ. Do đó thị trường được coi là môi trường của kinh doanh. Trong quản lý kinh tế, thị trường là nơi Nhà nước tác động vào quá trình kinh doanh của cơ sở, quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp
Chức năng
Chức năng tái sản xuất được thực hiện:
Chức năng thông tin: Thị trường cung cấp thông tin cho cả người sản xuất và người tiêu dùng, thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu, sản xuất khi nào. Thị trường chỉ cho người tiêu dùng nên mua hàng hóa hay dịch vụ nào, mua ở đâu, mua vào thời điểm nào. Chức năng này chứa đựng thông tin về tổng cung, tổng cầu, quan hệ cung cầu và yếu tố ảnh hưởng đến việc mua bán.
Chức năng điều tiết: Thông qua nhu cầu thị trường các nhà sản xuất kinh doanh sẽ chủ động điều tiết vốn, vật tư và lao động trong các lĩnh vực sao cho lợi nhuận thu lại là lớn nhất.
Phân loại thị trường
Phân loại thị trường có thể dùng nhiều tiêu thức khác nhau. Dưới đây là một số phương pháp phân loại mà người kinh doanh tham gia với tư cách người bán.
Phân loại căn cứ vào hình thái hiện vật và mục đích của hàng hóa trao đổi trên thị trường:
- Thị trường các yếu tố sản xuất là thị trường trong đó diễn ra việc trao đổi hàng hóa để thõa mãn các yêu cầu sản xuất của xã hội. Hàng hóa trên thị trường chủ yếu là các nguyên vật liệu hoặc các sản phẩm kỹ thuật khác.
- Thị trường hàng tiêu dùng là thị trường trao đổi hàng hóa đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng của xã hội, thị trường này đa dạng và luôn biến động.
- Thị trường các dịch vụ: Trên thị trường trao đổi các hàng hóa đặc biệt không tồn tại dưới hình thái vật chất cụ thể
Phân loại căn cứ vào phạm vi vùng thu hút và vị trí của mối quan hệ:
- Thị trường địa phương
- Thị trường dân tộc
- Thị trường quốc tế
Phân loại căn cứ vài số người tham gia vào thị trường và vị trí của người bán, người mua trên thị trường:
- Thị trường độc quyền là thị trường mà bên tham gia chỉ có một bên duy nhất, bên bán có một người là thị trường độc quyền bán, bên mua chỉ có một người là thị trường độc quyền mua.
- Thị trường cạnh tranh mà ở đó có nhiều người bán, người mua tham gia thị trường được coi là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, còn đòi hỏi hàng hóa phải đồng nhất để không tạo ra những cản trở trong cạnh tranh, đồng thời dễ dàng chuyển đổi ngành nghề.
- Thị trường độc quyền cạnh tranh là thị trường vừa có yếu tố cạnh tranh đồng thời ở một số bộ phận thị trường một hoặc một số nhà kinh doanh có được lợi thế và độc chiếm bộ phận thị trường đó, khi tham gia vào thị trường độc quyền cạnh tranh nhà kinh doanh có thể lựa chọn để quyết định hoặc về giá bán hoặc về khối lượng bán.
Phân loại theo khả năng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội:
- Thị trường thực tế
- Thị trường tiềm năng
- Thị trường lý thuyết
- Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại thị trường khác tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà kinh doanh có thể lựa chọn tiêu thức cụ thể.
Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
Ở góc độ sự tác động của các lĩnh vực thị trường các nhân tố thuộc về chính trị xã hội thể hiện qua chính sách tiêu dùng, dân tộc quan hệ quốc tế, các nhân tố tâm sinh lý tác động mạnh mẽ đến người tiêu dùng và do đó có tác động mạnh mẽ tới nhu cầu thị trường, các nhân tố môi trường như thời tiết, khí hậu cũng ảnh hưởng tới sản xuất và tiêu dùng.
Theo tính chất quản lý và phân cấp quản lý:
- Các nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương, chính sách, biện pháp của Nhà nước, các cấp tác động vào thị trường. Những chính sách, biện pháp hay được sử dụng là thuế, quỹ điều hoà giá cả, những biện pháp này có vai trò khác nhau nhưng nó có tác động trực tiếp vào cung hoặc cầu nên tác động gián tiếp vào giá cả. Ngoài ra, còn có các yếu tố như mật độ dân số, trình độ phát triển của hệ thống giao thông vận tải, mức độ đô thị hoá. Đây là các yếu tố quan trọng của thị trường, nó tạo nên mức độ thuận lợi hay bất lợi của môi trường kinh doanh.
- Các nhân tố thuộc quản lý vi mô: Là những chiến lược, chính sách, biện pháp của cơ sở kinh doanh sử dụng trong kinh doanh, nó thường các chính sách làm cho sản phẩm thích ứng với môi trường.
Nội dung công tác duy trì và mở rộng thị trường tiêu thị sản phẩm của doanh nghiệp
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là thị trường ở đó doanh nghiệp giữ vai trò là người bán. Nó là một bộ phận trong tổng thể thị trường của ngành và nền kinh tế.
Phần thị trường của những người không tiêu dùng tuyệt đối là tập hợp những người có nhu cầu về loại hàng hoá đó, có khả năng thanh toán nhưng vì những lí do bất khả kháng nên họ không mua loại hàng đó. Ví dụ như: người tàn tật với chiếc xe ô tô, người điếc với radio catset.
Phần thị trường của những người không tiêu dùng tương đối là tập hợp những người không tiêu dùng loại hàng hoá đó vì nhiều lí do khác nhau như: thiếu thông tin, không biết sự có mặt của loại hàng hoá đó trên thị trường, thiếu khả năng thanh toán, vì chất lượng hàng hoá không phù hợp yêu cầu. Trong tương lai có thể họ sẽ là người tiêu dùng hàng hoá đó.
Phần thị trường hiện tại của doanh nghiệp bao gồm những khách hàng thường xuyên, hay vãng lai của doanh nghiệp.
Để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp (thị phần) người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Tỷ trọng doanh thu của doanh nghiệp so với doanh thu của toàn ngành
- Tỷ trọng sản lượng của doanh nghiệp so với sản lượng của toàn ngành
Phần doanh thu (%) = DT bán hàng của dn / DT bán hàng toàn ngành X 100%
Phần sản lượng (%) = SL tiêu thụ của dn / SL tiêu thụ của toàn ngành X 100%
Thị trường tiềm năng của doanh nghiệp là phần thị trường doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh trong tương lai.
Nội dung công tác duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
Để thu được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bắt buộc doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đều phải có mục tiêu, phải xây dựng cho được một chiến lược tổng thể hợp nhất, trong chiến lược tổng thể hợp nhất này bao gồm nhiều chiến lược, chính sách để thực hiện chiến lược tổng thể này. Một trong những khâu cuối cùng và khâu quan trọng nhất đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển được đó là khâu tiêu thụ sản phẩm với mục tiêu cụ thể là duy trì và không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Có hai hướng mở rộng thị trường của doanh nghiệp:
- Mở rộng theo hướng lôi kéo những người không tiêu dùng tương đối, biến họ thành khách hàng của doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tăng cường công tác quảng cáo, mở rộng mạng lưới bán hàng và cải tiến chất lượng sản phẩm.
- Mở rộng theo hướng lôi kéo những khách hàng của đối thủ cạnh tranh, biến khách hàng của đối thủ cạnh tranh thành khách hàng của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh mạnh: cạnh tranh về giá, về chất lượng hàng hoá, về dịch vụ trong và sau khi bán hàng, kết hợp với tăng cường quảng cáo.
Về mặt lí thuyết thị trường tiềm năng của doanh nghiệp có thể phát triển bằng thị trường lí thuyết của ngành. Nghĩa là khi đó doanh nghiệp đã tiêu diệt hết các đối thủ cạnh tranh để trở thành độc quyền và lôi kéo hết những người không tiêu dùng tương đối thành người tiêu dùng sản phẩm của mình. Trong thực tế không thể đạt được điều đó, thị trường tiềm năng có tính đến những cản trở của các đối thủ cạnh tranh, tính đến khả năng mọi mặt của doanh nghiệp (công nghệ, vốn, lao động, quản lý). Thị trường tiềm năng của doanh nghiệp trong thực tế là mục tiêu chính xác về phần thị trường mà doanh nghiệp cần phải đạt được trong một thời gian cụ thể:
Xác định chính xác thị trường tiềm năng của doanh nghiệp là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng nên chiến lược thị trường, chiến lược sản xuất, kinh doanh cho mình.
Chính sách duy trì thị trường hiện tại của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến khách hàng hiện tại của mình, làm cho họ mua nhiều hàng hơn hoặc để họ trung thành với nhãn hiệu hàng hoá của mình.
Chiến lược mở rộng thị trường đòi hỏi doanh nghiệp một mặt phải tạo cho sản phẩm hàng hoá của mình có sức cạnh tranh tấn công vào thị trường của đối thủ, dành khách hàng từ đối thủ cạnh tranh về phía mình. Mặt khác, mở chiến dịch xâm nhập vào phía thị trường những người không tiêu dùng tương đối.
Nghiên cứu và dự báo thị trường
Nghiên cứu và dự báo thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên với bất cứ một doanh nghiệp nào. Nghiên cứu và dự báo thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm khả năng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể, hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện khả năng đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho người quản lý đưa ra quyết định đúng đắn.
Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường phải góp phần chính trong việc thực hiện phương châm hành động “chỉ bán cái thị trường cần, không bán cái thị trường có sẵn”. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường phải trả lời một số câu hỏi quan trọng sau:
- Thị trường nào có triển vọng nhất đối với sản phẩm của doanh nghiệp?
- Khả năng bán được bao nhiêu?
- Sản phẩm cần phải có những thích ứng gì đáp ứng đòi hỏi của thị trường?
- Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp?
Quá trình nghiên cứu và dự báo thị trường gồm các bước: thu thập thông tin, xử lí thông tin, dự báo sự biến động của thị trường và ra quyết định. Thực hiện các nhiệm vụ này có thể bằng hai phương pháp: nghiên cứu tại bàn làm việc hoặc nghiên cứu tại hiện trường.
Xây dựng chính sách sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường
Chính sách phát triển sản phẩm có một vị trí rất quan trọng trong chiến lược thị trường của một doanh nghiệp. Nó tạo thế chủ động trong việc đáp ứng thị hiếu của khách hàng và tạo sự thay đổi trong thị hiếu của họ.
Nội dung cơ bản của chính sách sản phẩm là tuỳ theo tình hình cụ thể trên thị trường mà doanh nghiệp quyết định nên sản xuất loại sản phẩm nào, có nên thay đổi sản phẩm hiện nay không, thay như thế nào hoặc đưa ra thị trường một sản phẩm mới hoàn toàn hay chỉ cải tiến từ sản phẩm hiện có để có sức cạnh tranh hơn