Đề tài Giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc

NNL là yếu tố cơ bản, là điểm cốt yếu nhất của nguồn nội lực, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển mọi mặt của đời sống KT-XH, thực hiện CNH, HĐH và HNQT. Trong thời đại KHCN, các lợi thế về số lượng lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đã dần được thay bởi trình độ khoa học, trình độ người lao động, khả năng tổ chức quản lý nguồn lao động hợp lý.

doc117 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Tính cấp thiết của đề tài NNL là yếu tố cơ bản, là điểm cốt yếu nhất của nguồn nội lực, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển mọi mặt của đời sống KT-XH, thực hiện CNH, HĐH và HNQT. Trong thời đại KHCN, các lợi thế về số lượng lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên đã dần được thay bởi trình độ khoa học, trình độ người lao động, khả năng tổ chức quản lý nguồn lao động hợp lý. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững..., là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH”. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, bên cạnh sự hợp tác để phát triển, cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng trở nên gay gắt và lợi thế luôn thuộc về các quốc gia có NNL chất lượng cao. Vì vậy, đào tạo nâng cao chất lượng NNL nhằm tăng năng lực cạnh tranh nền kinh tế trở thành vấn đề cấp bách của mọi quốc gia. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, những nước quan tâm và có chính sách phát triển NNL đúng đã tạo ra một lực lượng lao động kỹ thuật lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng tưởng kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và là tiền đề cho phát triển bền vững. Đảng và Nhà nước ta luôn xem con người là yếu tố đặc biệt quan trọng và đã không ngừng đào tạo, bồi dưỡng phát triển NNL đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đề ra trong từng thời kỳ. Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng KTTĐ Bắc Bộ, đang trong quá trình triển khai thực hiện các mục tiêu KT - XH do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIV đề ra và đạt được những thành tựu quan trọng. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, vốn đầu tư tăng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng hiện đại, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản, văn hoá - xã hội có bước phát triển khá, đời sống của nhân dân được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của NNL trong quá trình phát triển KT - XH, thực hiện CNH, HĐH, Vĩnh Phúc đã quan tâm và ban hành nhiều cơ chế, chính sách đào tạo và phát triển NNL. Ngày 25/2/2008, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU về phát triển NNL lực phục vụ CNH, HĐH đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Năm 2008, được tỉnh lấy là năm “Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH, đẩy mạnh phát triển NNL phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH”. Cơ cấu và chất lượng NNL của tỉnh đã có sự thay đổi quan trọng theo hướng tích cực. Quy mô và chất lượng giáo dục- đào tạo được nâng lên, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo, phát triển NNL được chú trọng đầu tư. Tuy nhiên, NNL của tỉnh nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và HNKTQT. Thiếu độ ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ chuyên gia giỏi và công nhân lành nghề trong các lĩnh vực. Khả năng tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động còn nhiều hạn chế. Đạo đức, tác phong, kỷ luật của một bộ phận người lao động còn bất cập; trình độ ngoại ngữ, tin học và kỹ năng nghề nghiệp còn thấp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động chưa theo kịp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế và các vùng miền còn bất hợp lý, năng suất lao động còn thấp, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đưa Vĩnh Phúc “Có đủ các yếu tố của một tỉnh công nghiệp vào năm 2015; trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm 20 của thế kỷ XXI” [29, tr.33]. Đòi hỏi tỉnh phải có những chính sách, giải pháp hợp lý nhằm đào tạo, phát triển và sử dụng có hiệu quả NNL. Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài "Giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc" để làm luận văn thạc sĩ Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài NNL là một trong những nguồn lực quan trọng và quyết định nhất đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững của một quốc gia cũng như một tỉnh. ở Vĩnh Phúc và cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các hội thảo khoa học, các luận văn tiến sĩ, thạc sĩ của các nhà khoa học về đề tài này ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau, trong đó nổi bật lên là các công trình: - PGS,TS Phạm Thành Nghị và TS Vũ Hoàng Ngân (2004), "Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội. - TS Nguyễn Thanh (2005), "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - TS Mai Quốc Chánh (1999), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - TS Đoàn Văn Khải (2005), “Nguồn nhân lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. - TS Nguyễn Hữu Dũng (2003), “ Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. - TS Nguyễn Bá Ngọc và KS Trần Văn Hoan (2002), “Toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam”, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. - Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Ngọc Tú (2003), "Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Đinh Khắc Định (2005), “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nông”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Lê Quang Hùng (2006), “Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế- xã hội ở thành phố Đà Nẵng”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Phan Văn Sơn (2007), “phát triển đội ngũ lao động kỹ thuật ở thành phố Đà Nẵng- thực trạng và giải pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Công trình nghiên cứu của Nguyễn Trọng Đạt năm 2002 “Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm phục vụ phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Vĩnh Phúc”  Các công trình trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau về phát triển NNL. Trong quá trình nghiên cứu luận văn sẽ tiếp thu thành quả khoa học của các công trình đi trước nhằm luận giải những vấn đề thực tế đang đặt ra cho phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Phúc. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn Tìm các giải pháp nhằm phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ những vấn đề lý luận về NNL như: Khái niệm, tiêu chí đánh giá NNL, các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng NNL, vai trò của NNL đối với quá trình CNH, HĐH. - Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng số lượng, cơ cấu, chất lượng NNL, công tác đào tạo và sử dụng NNL ở tỉnh Vĩnh Phúc, làm rõ những điểm mạnh, những tồn tại, hạn chế của NNL. - Đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu NNL và phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Phúc dưới góc độ quản lý nhà nước về kinh tế. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về NNL trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn - Tiếp cận những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển NNL. - Luận văn sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử và các phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, minh họa để thực hiện đề tài. 6. Đóng góp về khoa học của luận văn - Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về NNL và phát triển NNL. - Phân tích, đánh giá thực trạng NNL và phát triển NNL ở tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm qua. - Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH ở tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ Sở Lý LUậN về phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta 1.1. Khái niệm, vai trò và các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực 1.1.1. Khái niệm và vai trò nguồn nhân lực đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Trong nền kinh tế hiện đại, NNL đặc biệt là NNL chất lượng cao vừa là nguồn lực to lớn, vừa là động lực tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế, là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì, chỉ có NNL mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vật chất khác trong xã hội, trở thành lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. Chính vì vậy NNL được nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. UNESCO đưa ra khái niệm phát triển NNL theo nghĩa hẹp khi cho rằng: Phát triển NNL là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Các nhà kinh tế có quan niệm phát triển NNL gần với quan niệm của UNESCO là phải gắn với phát triển sản xuất và chỉ giới hạn phát triển NNL trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm. ILO lại cho rằng phát triển NNL bao hàm phạm vi rộng hơn. Không chỉ là có sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc bao gồm ngay cả vấn đề đào tạo nói chung, mà còn là phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung, nâng cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc. Liên hợp quốc nghiêng về sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục- đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH và nâng cao chất lượng cuộc sống. Như vậy, cách hiểu của Liên hợp quốc bao quát hơn và nhấn mạnh khía cạnh xã hội của NNL. Nó vừa là yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế (yếu tố đầu vào), vừa là mục tiêu của phát triển và tăng trưởng kinh tế (yếu tố đầu ra). Cách tiếp cận này xuất phát từ lý thuyết mới về phát triển con người. Trong đó, phát triển NNL thuộc phạm trù phát triển con người, nhưng nhấn mạnh phát triển con người như thế nào để đạt tới con người trưởng thành có năng lực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và sử dụng năng lực đó một cách có hiệu quả. Theo quan niệm của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) thì lực lượng lao động là dân số trong độ tuổi lao động thực tế có việc làm và những người thất nghiệp. Đây là khái niệm về NNL theo nghĩa tương đối hẹp, coi NNL là nguồn lao động hoặc là toàn bộ lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Theo định nghĩa của UNDP thì “NNL là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc đang là tiềm năng để phát triển KT-XH trong một cộng đồng”. Như vậy, NNL là tổng thể các tiềm năng lao động con người của một quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có khả năng huy động vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Tiềm năng về thể lực con người thể hiện qua tình trạng sức khỏe của cộng đồng, tỷ lệ sinh, mức độ dinh dưỡng của xã hội. Cơ cấu dân số thể hiện qua tháp tuổi của dân số. Năng lực thể chất của con người là nền tảng và cơ sở để năng lực về trí tuệ và nhân cách phát triển. Tiềm năng về trí lực là trình độ dân trí và trình độ CMKT hiện có cũng như khả năng tiếp thu tri thức, khả năng phát triển tri thức của NNL. Năng lực về nhân cách liên quan đến truyền thống lịch sử và nền văn hóa của từng quốc gia. Nó được kết tinh trong mỗi con người và cộng đồng, tạo nên bản lĩnh và tính cách đặc trưng của con người lao động trong quốc gia đó. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng cho rằng “Phát triển NNL của một quốc gia, một vùng lãnh thổ chính là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền KT-XH” [10, tr.13]. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hóa, truyền thống lịch sử dân tộc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của con người trong lao động. Các nhà kinh tế khi xem xét NNL thường xem xét dưới 2 góc độ: ở góc độ thứ nhất, đó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. ở góc độ này có thể hiểu NNL là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm năng lao động) của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) có trong một thời kỳ nhất định phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển. Tiềm năng đó bao hàm tổng hòa năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách của con người (lao động) của một quốc gia (một vùng lãnh thổ), đáp ứng với một cơ cấu nhất định của con người. Thực chất đó là tiềm năng của con người (lao động) về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Toàn bộ tiềm năng đó hình thành năng lực xã hội của con người. Xem xét nguồn lực con người dưới góc độ tiềm năng của NNL là rất quan trọng vì nó cho ta định hướng phát triển NNL như thế nào để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội của nguồn lực con người thông qua giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khỏe… Đối với từng quốc gia, năng lực xã hội của con người là rất khác nhau, nhưng nói chung tiềm năng đó là vô hạn. Vấn đề là khai thác tiềm năng đó như thế nào và bằng biện pháp gì để biến tiềm năng đó thành hiện thực, từ đó nguồn lực con người phải được xem xét dưới góc độ thứ hai. Đó là tính năng động xã hội của con người. Nguồn lực con người ở dạng tiềm năng (NNL) là ở trạng thái tĩnh, nguồn lực đó phải được chuyển sang trạng thái động, tức là được phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Con người với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do tư duy sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động, giá trị sáng tạo và cống hiến thì tiềm năng vô tận đó của NNL con người sẽ được khai thác và phát huy, trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn. Khai thác tối đa tiềm năng con người, đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và tay nghề là một trong những chỉ báo quan trọng phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia. Như vậy, mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, song có một điểm chung nhất của tất cả các định nghĩa là đều coi phát triển NNL là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình phát triển quốc gia. Nói một cách khái quát nhất, phát triển NNL chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Phát triển NNL luôn luôn là động lực thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Phát triển NNL gắn liền với phát triển con người cụ thể, có năng lực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp hóa trước đây đã chỉ ra rằng phần lớn thành quả phát triển không phải nhờ tăng vốn mà là nhờ những hoàn thiện trong năng lực của con người, sự tinh thông, bí quyết nghề nghiệp và quản lý. Khác với đầu tư cho các nguồn lực phi con người, đầu tư cho phát triển con người là vấn đề liên ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn bộ xã hội nói chung. Phát triển NNL chủ yếu là những tiến bộ về chất lượng NNL của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc mỗi tổ chức. Ngoài yếu tố chất lượng sức lao động của mỗi cá nhân đang sống và làm việc, chất lượng NNL còn phụ thuộc vào cơ cấu của đội ngũ lao động và lành nghề, trình độ kỹ thuật, năng lực tổ chức, quản lý và khả năng phối hợp hành động để đạt mục tiêu đề ra. Một cơ cấu nhân lực hợp lý và tổ chức hoạt động tốt sẽ có tác động cộng hưởng làm tăng sức mạnh của tổ chức và từng cá nhân để thực hiện mục tiêu đề ra. Ngược lại một cơ cấu không hợp lý, không đồng bộ và tổ chức quản lý hoạt động không tốt sẽ không phát huy được tác dụng cộng hưởng mà đôi khi còn giảm sức mạnh của tổ chức đó và triệt tiêu động lực hoạt động của từng cá nhân. Do đó, phát triển NNL của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và mỗi tổ chức phải chú ý lựa chọn một cơ cấu hợp lý và phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của mỗi giai đoạn. 1.1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển: NNL là nguồn lực con người và là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển KT - XH. Vai trò của NNL bắt nguồn từ vai trò của yếu tố con người. + Con người là động lực của sự phát triển: Phát triển KT - XH dựa trên nhiều nguồn lực: Nhân lực, vật lực, tài lực, song chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Từ thời xa xưa con người bằng công cụ lao động thủ công và nguồn lực do chính bản thân mình đã tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng chi tiết, hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển dần hoạt động của con người cho máy móc thiết bị thực hiện, làm thay đổi tính chất lao động từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhưng ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học- kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ: Chính con người tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại và chỉ có tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt động. Vì vậy, nếu xem xét NNL là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực con người. Trong phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển. Đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta, có dân số đông, NNL dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng. Nếu chúng ta biết khai thác nó sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển. + Con người là mục tiêu của sự phát triển: Phát triển KT - XH suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh. Nói khác đi, con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội và như vậy nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng, song nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất, định hướng phát triển sản xuất thông qua quan hệ cung, cầu hàng hóa trên thị trường. Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hóa nào đó tăng lên, lập tức thu hút lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó và ngược lại. Nhu cầu con người vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên, nó bao gồm nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, về số lượng và chủng loại hàng hóa ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát triển KT- XH. - Nguồn nhân lực là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và rút ngắn khoảng cách tụt hậu: Tăng trưởng kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng được tạo bởi 4 yếu tố: nhân lực, vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mà tác động của các yếu tố đó đối với tăng trưởng cũng khác nhau. Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ to lớn là điều kiện đầu tiên chống tụt hậu về kinh tế, rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ “Phát huy nguồn lực con người là yếu cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [11, tr.85]. Nhật Bản là một quốc gia nghèo về tài nguyên nhưng lại có NNL dồi dào, kỹ năng năng động, sáng tạo và chăm chỉ đã đưa Nhật Bản trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới, điều này cho thấy nhân lực là tài nguyên quý giá đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nếu biết khai thác sử dụng nó. Nhiều nước phát triển trong khu vực như Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Hồng Kông...
Tài liệu liên quan