Đề tài Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động ở Công ty Cổ phần Cung ứng và Xuất nhập khẩu Lao động Hàng không

Ở nước ta các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang đóng vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhất là trong những năm nhân dân ta vừa phải chiến đấu chống giặc ngoại xâm, vừa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đến nay trước yêu cầu của quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp Nhà nước. Xuất phát từ đường lối chung các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế ở Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường một trong những chủ trương lớn là: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước đủ điều kiện- có nghĩa là một số doanh nghiệp Nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một hình thức sản xuất tiến bộ trong nền kinh tế thị trường. ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc sắp xếp, chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần tiến lên thành các tập đoàn công ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế là con đường hữu hiệu để đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Cổ phần hoá ở các quốc gia tuy có những thành công và vướng mắc khác nhau nhưng đều có những điểm chung về mục tiêu, hình thức và đều phải có sự trợ giúp của Chính phủ để đẩy mạnh qúa trình chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là hệ thống cơ chế chính sách tài chính.

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động ở Công ty Cổ phần Cung ứng và Xuất nhập khẩu Lao động Hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ở nước ta các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang đóng vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhất là trong những năm nhân dân ta vừa phải chiến đấu chống giặc ngoại xâm, vừa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đến nay trước yêu cầu của quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản doanh nghiệp Nhà nước. Xuất phát từ đường lối chung các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế ở Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường một trong những chủ trương lớn là: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước đủ điều kiện- có nghĩa là một số doanh nghiệp Nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một hình thức sản xuất tiến bộ trong nền kinh tế thị trường. ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc sắp xếp, chuyển đổi một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần tiến lên thành các tập đoàn công ty đa quốc gia đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả ở thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế là con đường hữu hiệu để đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Cổ phần hoá ở các quốc gia tuy có những thành công và vướng mắc khác nhau nhưng đều có những điểm chung về mục tiêu, hình thức và đều phải có sự trợ giúp của Chính phủ để đẩy mạnh qúa trình chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là hệ thống cơ chế chính sách tài chính. Để hiểu rõ hơn, em xin phép được chọn đề tài “Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động ở Công ty Cổ phần Cung ứng và Xuất nhập khẩu Lao động Hàng không” bởi qua đây, em muốn vận dụng những kiến thức đã được học và kết quả thực tế đã thu được sau thời gian thực tập tại cơ sở để làm rõ hơn vấn đề đang được coi là nóng bỏng hiện nay. Chuyên đề được trình bày trong 03 phần: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Chương II: Thực trạng tài chính ở Công ty xuất nhập khẩu lao động hàng không Việt Nam trong tiến trình cổ phần hoá. Chương III: Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động của Công ty. Do thời gian thực tập có hạn, trình độ lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế, chuyên đề của em không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến để các chuyên đề của em sau này được hoàn thiện hơn. Chương 1 Cơ sở lý luận về cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước 1.1. Công ty cổ phần - Đặc điểm công ty cổ phần: 1.1.1 Công ty cổ phần: Công ty Cổ phần ra đời đánh dấu một bước tiến đáng kể về hình thức tổ chức kinh doanh, sự phát triển kinh tế và trình độ quản lý của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, nền kinh tế thị trường chưa đòi hỏi phải hình thành Công ty Cổ phần bởi vì quy mô còn nhỏ, vốn của một cá nhân có thể đủ đáp ứng cho hoạt động của một Doanh nghiệp (DN), nhưng ngày nay DN hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các DN phải mở rộng quy mô, tăng cường trang bị kỹ thuật, đầu tư vào lĩnh vực mới... Để đáp ứng nhu cầu về vốn, các nhà tư bản nhỏ có thể thoả hiệp và liên minh lại với nhau để có một lượng tư bản lớn đủ sức cạnh tranh, giành ưu thế trên thị trường, đủ sức kinh doanh trong những ngành hoặc lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, từ đó hình thành nên những DN mới. Các loại hình công ty nói chung và Công ty Cổ phần nói riêng đã trở thành những hình thức tổ chức kinh doanh được phát triển phổ biến do khả năng thích ứng và tính hiệu quả của nó. Luật Công ty của nước ta xác định Công ty Cổ phần là công ty mà trong đó: Số thành viên ( cổ đông) phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là bảy năm. Vốn điều lệ của công ty được chia đều thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Cổ phiếu phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội động quản trị, trừ trường hợp được quy định ở điều 39 của luật này, số cổ phiếu này( Cổ phiếu của Hội đồng quản trị) tác giả phải ghi tên, không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại chức và trong thời hạn hai năm, kể từ ngày thôi giữ chức thành viên Hội đồng quản trị. 1.1.2. Đặc điểm Công ty Cổ phần 1.1.2.1 Về mặt pháp lý - Loại công ty này có tư cách pháp nhân độc lập, được hưởng quy chế pháp lý độc lập, tách rời với các thành viên, có tư cách là bên nguyên để kiện các pháp nhân khác, đồng thời cũng có thể bị các pháp nhân khác kiện. Đây là dấu hiệu để phân biệt với các loại công ty không được hưởng quy chế pháp nhân. - Chế độ chịu trách nhiệm của công ty cổ phần là chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn. Các cổ động chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty theo tỷ lệ phần vốn góp của họ. Công ty chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của công ty. Đây là dấu hiệu chung của loại công ty trách nhiệm hữu hạn. 1.1.2.2 Về mặt tài chính - Vốn của công ty được chia thành các cổ phần là đặc trưng có tính quyết định để phân biệt giữa Công ty Cổ phần với các loại tổ chức kinh tế khác. Cổ phần là phần vốn cơ bản của công ty thể hiện một khoản giá trị thực tế tính bằng tiền gọi là mệnh giá cổ phần. Cổ phần chứng minh rằng tư cách thành viên của các cổ đông- Cổ phần được biểu hịên bằng hình thức cổ phiếu. Có loại cổ phiếu ghi tên và cổ phiếu không ghi tên. Các cổ phiếu không ghi tên được tự do mua bán một cách dễ dàng không bị ràng buộc bởi một điều kiện hạn chế nào. Các cổ phiếu có ghi tên, việc chuyển nhượng được tiến hành có điều kiện. Chẳng hạn cổ phần của các sáng lập viên và các thành viên của Hội đồng quản trị thường là cổ phần có ghi tên. Loại này không mua bán trao tay mà phải ghi sổ. Dấu hiệu pháp lý về chế độ trách nhiệm hữu hạn, dấu hiệu vốn được huy động và phân chia thành cổ phần là hai đặc trưng tài chính cơ bản của Công ty Cổ phần để phân biệt với các loại công ty khác. - Đặc điểm tài chính của Công ty Cổ phần còn thể hiện ở việc huy động vốn của Công ty Cổ phần. Ngoài cách huy động mà các DN vẫn tiến hành, Công ty Cổ phần có thể thực hiện tăng vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu và trái phiếu mới. Cách này tạo khả năng cho Công ty Cổ phần huy động được nguồn vốn lớn và nhanh hơn nhiều so với việc tích tụ vốn từ lợi nhuận không chia. Ngoài ra đây cũng là cách đa dạng hoá các công cụ tài chính với các đặc điểm khác nhau để phân bố rủi ro và chuyển đổi linh hoạt trong hoạt động khác. - Chính sách lợi tức cổ phần, việc phân chia lợi nhuận riêng ( sau khi nộp thuế lợi tức) thành ra hai phần: phần để trả lợi tức cổ phần, phần để lại không chia( chủ yếu dùng tài trợ cho kinh doanh) là một nét đặc trưng trong các quyết định và hoạt động tài chính mà Công ty Cổ phần phải cân nhắc. 1.1.2.3 Về mặt sở hữu Công ty Cổ phần có nhiều chủ sở hữu, chủ sở hữu của Công ty Cổ phần là các cổ đông, và việc sở hữu thể hiện chủ yếu trên phương diện như thu lợi tức cổ phần trên cơ sở kết quả hoạt động của công ty, tham gia đại hội cổ đông, quyết định những vấn đề mang tính chiến lược của công ty. Các cổ đông có thể chuyển nhượng quyền sở hữu. Song hầu hết những người chủ sở hữu lại không tham gia quản lý mà giao cho bộ máy quản lý của công ty điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và quan hệ với bạn hàng. Như vậy Công ty Cổ phần là một cơ chế giải phóng hầu hết các chủ sở hữu khỏi nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn, chức năng đó được giao cho các nhà quản lý chuyên nghiệp, điều đó có rất nhiều ưu điểm, song cũng cần tránh việc lợi dụng đa số để gây thiệt hại cho công ty làm lợi cho riêng mình. 1.1.2.4 Về tổ chức Do tính chất nhiều chủ sở hữu của Công ty Cổ phần nên các cổ đông không thể thực hiện trực tiếp vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và các kiểm soát viên. Hệ thống tổ chức của Công ty Cổ phần như sau: ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG CHỦ TỊCH HĐQT KIỂM SOÁT VIÊN GIÁM ĐỐC - Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo luận và thông qua các điều lệ của công ty. Đại hội thành lập phải có nhóm cổ đông đại diện cho ít nhất số vốn điều lệ của công ty và biểu quyết đa số quá bán. - Hội đồng quản trị ( HĐQT) là cơ quan quản lý công ty gồm từ 3 đến 12 thành viên. HĐQT có toàn quyền và nhân danh công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích và quyền lợi của công ty. 1.1.2.5 Về tính chất dân chủ trong quản lý Công ty Cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất dân chủ rất cao, tuy rằng tính dân chủ ở đây là có điều kiện, nó phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp của các cổ đông chứ không phải hoàn toàn bình đẳng đối với mọi người. Do số lượng cổ đông trong công ty thường rất lớn nên cơ cấu tổ chức và chức năng của từng bộ phận phải vừa đảm bảo được vai trò của chủ sở hữu vừa đảm bảo cho công ty hoạt động có hiệu quả. 1.2. Sự cần thiết phảI cổ phần hoá DNNN và xử lý các vấn đề tàI chính khi cổ phần hoá 1.2.1 Sự cần thiết phải cổ phần hoá DNNN Cổ phần hoá DNNN là một trong những giải pháp, chủ trương hết sức cần thiết và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình DN này. Trước hết cổ phần hoá góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của khu vực DNNN. Hiện nay nhu cầu về vốn của các DN là rất lớn để đảm bảo cho sự tồn tại của chính bản thân DN và cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng lấy ở đâu ra? Nhà nước ( Ngân sách và ngân hàng) không thể tiếp tục cấp vốn cho khu vực làm ăn kém hiệu quả. Trong khi đó tiềm lực vốn trong dân và trong các tổ chức kinh tế xã hội là rất lớn lại chưa được tận dụng khai thác và sử dụng có hiệu quả cho sản xuất. Theo kết quả điều tra gần đây của Bộ kế hoạch - Đầu tư và tổng cục thống kê thì 44% tiền để dành của dân chúng dùng để mua vàng và ngoại tệ, 20% mua nhà đất và cải thiện điều kiện sinh hoạt, chỉ có 17% gửi tiết kiệm, phần lớn là tiết kiệm ngắn hạn. Hơn nữa thị trường vốn của Việt Nam còn phát triển chậm nên nguồn vốn duy nhất DNNN có thể khai thác được hiện nay là nguồn tín dụng. Tuy nhiên, nguồn vốn này còn hạn chế. Việc cổ phần hoá các DNNN tạo điều kiện bán cổ phần, thu hút đầu tư của nhiều thành phần kinh tế, mở cửa cho việc đa dạng hoá sở hữu. Cổ phần hoá DNNN tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình đối với DN. Trong công ty cổ phần quyền lợi và trách nhiệm của người lao động gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì mỗi người lao động trong xí nghiệp bằng vốn tự có của mình, quỹ phúc lợi của DN được phân bổ... đều có thể tham gia mua cổ phiếu tại công ty. Họ cống hiến cho DN cũng chính vì lợi ích của họ. Điều này xoá bỏ được tư tưởng ỷ lại Nhà nước, kích thích mọi người phát huy hết khả năng, hăng say lao động. Hơn nữa, với việc góp vốn này thì người lao động từ công nhân trực tiếp sản xuất đến giám đốc DN đều trở thành người chủ thực sự đồng vốn của mình. Đều được tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của DN với quyết tâm và ý chí chung là gặt hái được hiệu quả cao nhất. Cổ phần hoá còn có tác dụng tích cực đến việc cải tiến quản lý hiệu quả hơn. Cổ phần hoá các DNNN hình thành các Công ty Cổ phần cũng có nghĩa là xác định vai trò làm chủ thực sự của DN, cụ thể là Hội đồng quản trị thay mặt và chịu trách nhiệm về hiệu quả của đồng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh với tất cả các cổ đông góp vốn. Hội đồng quản trị là ông chủ thực sự thay mặt cho các cổ động chứ không phải ai khác và hoạt động tích cực, không ngừng sáng tạo cải tiến kỹ thuật, phương pháp công nghệ và cả thủ thuật, biện pháp kinh doanh có hiệu quả nhất. Đây cũng là biện pháp hạn chế các chỉ đạo từ trên xuống vốn có ở một DNNN. Đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi cho việc tách rời chức năng quản lý sản xuất kinh doanh và chức năng quản lý Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế, tạo thế chủ động cho người bỏ vốn đầu tư, củng cố động lực cạnh tranh của nền kinh tế. Bên cạnh đó cổ phần hoá các DNNN còn tạo điều kiện thuận lợi để cơ cấu lại nền kinh tế. Với việc cổ phần hoá các DNNN, mở rộng đa dạng hoá sở hữu, sẽ có thêm điều kiện mới cho việc cơ cấu lại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên hai vế hết sức quan trọng: Động lực sở hữu của nhiều thành phần kinh tế và việc phân công lao động toàn xã hội theo các tác động của thị trường cạnh tranh. Đây cũng là cơ sở để điều chỉnh và đổi mới quan điểm lãnh đạo, quản lý của Nhà nước, xác định vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế quốc doanh. Xác định mũi nhọn chiến lược, ngành chủ lực để thực hiện vai trò điều tiết ngăn chặn khủng hoảng kinh tế hơn là bao sâu rộng rãi quá nhiều ngành nghề, đầu tư vốn đưa đến nhiều bấp bênh lỗ lãi. Đây chĩnh là quá trình cân bằng lại giữa sự can thiệp của Nhà nước và sự điều tiết của thị trường nhằm tận dụng những ưu điểm của cơ chế thị trường. Cổ phần hoá sẽ cởi bỏ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo dựng và củng cố nguồn lực của Nhà nước do việc nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các DN, cho phép nguồn thu của các DN được củng cố và gia tăng. Hơn nữa, Nhà nước còn thu được lợi ích từ phần vốn đầu tư của mình và DN, từ đó cho phép Nhà nước phát triển kinh tế. Thực hiện cổ phần hoá DNNN giúp cho việc giảm nhanh số lượng DNNN vốn kém hiệu quả, tăng cường khu vực kinh tế tư bản Nhà nước, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để đi lên Chủ nghĩa xã hội. Đồng thời đó cũng là tiền đề và triển vọng cho việc hình thành các tập đoàn đa quốc gia trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Ngoài ra cổ phần hoá DNNN còn tạo ra môi trường vừa cạnh tranh vừa tập hợp các tập đoàn kinh tế mạnh chuyên ngành hay đa ngành có thế mạnh về thị trường vốn với mục đích ngày càng thu được lợi nhuận cao. Đồng thời nó tạo một thói quen đầu tư mới trong nhân dân đó là đầu tư tài chính hơn là giữ tiền hoặc gửi tiền tiết kiệm. Với việc phát triển của Công ty cổ phần, tất cả mọi người đều có thể trở thành các nhà đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu của các Công ty cổ phần. Và người đầu tư có thể tự do lựa chọn công ty đầu tư sao cho có lợi nhất, khi công ty làm ăn có lãi và ngày càng phát triển thì cổ tức mà họ nhận được có thể cao hơn rất nhiều so với lãi suất tiết kiệm. Hơn nữa họ có quyền chuyển các cổ phiếu thành tiền mà không cần chờ đến thời hạn thanh toán. 1.2.2 Xử lý các vấn đề tài chính khi cổ phần hoá 1.2.2.1. Xử lý tài chính khi cổ phần hoá a) Kiểm kê và phân loại tài sản, công nợ Khi nhận được quyết định cổ phần hoá của cơ quan có thẩm quyền, DN có trách nhiệm tổ chức kiểm kê, phân loại tài sản DN đang quản lý, sử dụng tại thời điểm xác định giá trị DN như sau: Kiểm kê phân loại tài sản: * Kiểm kê xác định đúng số lượng và chất lượng của tài sản thực tế hiện có DN đang quản lý và sử dụng; kiểm quỹ tiền mặt, đối chiếu số dư tiền gửi ngân hàng tại thời điểm xác định giá trị DN; xác định tài sản, tiền mặt thừa thiếu so với sổ kế toán, phân tích rõ nguyên nhân thừa, thiếu. * Phân loại tài sản đã kiểm kê theo các nhóm sau: - Tài sản DN có nhu cầu sử dụng. - Tài sản DN không cần dùng, tài sản ứ đọng, chờ thanh lý theo quyết định của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DN. - Tài sản hình thành từ Quỹ khen thưởng, phúc lợi ( nếu có). - Tài sản thuê ngoài, vật tư hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, nhận đại lý, nhận ký gửi. Đối chiếu, xác nhận và phân loại các khoản công nợ, lập bảng kê chi tiết đối với từng loại công nợ như sau: * Nợ phải trả: Phân tích rõ các khoản nợ trong hạn, nợ quá hạn, nợ gốc, nợ lãi, nợ phải trả nhưng không phải thanh toán. Nợ phải trả nhưng không phải thanh toán là khoản nợ mà chủ nợ không còn tồn tại ( DN đã giải thể, phá sản, chủ nợ đã chết) hoặc chủ nợ không đến đối chiếu đòi nợ mặc dù đã quá hạn. * Nợ phải thu - Phân tích rõ nợ phải thu có khả năng thu hồi, nợ phải thu không có khả năng thu hồi. Các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi phải có đủ tài liệu chứng minh là không thu hồi được theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng. - Rà soát các hợp đồng kinh tế để xác định các khoản đã trả trước cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ nhưng đã hạch toán hết vào chi phí kinh doanh như: tiền thuê nhà, tiền thuê đất, tiền mua hàng, tiền mua bảo hiểm dài hạn, tiền lương, tiền công... để tính vào giá trị DN cổ phần hoá theo khoản 3 Điều 11 Nghị định 187/2004/NĐ- CP. Tổ chức đánh giá và xác dịnh giá trị tài sản của DN có nhu cầu sử dụng theo quy định. b) Xử lý tài chính Trước khi xác định giá trị DN * Tài sản Căn cứ vào kết quả kiểm kê, phân loại tài sản, DN xử lý tài sản: - Đối với tài sản thừa, thiếu phải phân tích rõ nguyên nhân và xử lý như sau: + Tài sản thiếu phải xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để xử lý bồi thường trách nhiệm vật chất theo quy định hiện hành; giá trị tài sản thiếu sau khi trừ khoản bồi thường, hạch toán vào kết quả kinh doanh. + Tài sản thừa, nếu không xác định được nguyên nhân và chủ sở hữu thì làm tăng vốn nhà nước. - Đối với những tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý sau khi được chấp thuận bằng văn bản của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước được xử lý như sau: + Thanh lý nhượng bán: Giám đốc DN chịu trách nhiệm chỉ đạo tổ chức thanh lý, nhượng bán tài sản theo pháp luật hiện hành. Các khoản thu và chi phí cho hoạt động thanh lý, nhượng bán tài sản được hạch toán vào thu nhập và chi phí của DN. + Điều chuyển tài sản cho đơn vị khác theo quyết định của đại diện chủ sở hữu vốn. Trường hợp điều chuyển cho các đơn vị ngoài bộ, địa phương, tổng công ty phải có sự thoả thuận của đại diện chủ sở hữu vốn bên nhận. Căn cứ biên bản giao nhận tài sản, DN giao, nhận tài sản hạch toán tăng, giảm vốn theo giá trị trên sổ kế toán của bên giao. Trường hợp bên nhận không chấp nhận giá trên sổ kế toán của bên giao thì hai bên thoả thuận giá giao nhận. Phần chênh lệch so với giá ghi trên sổ kế toán hạch toán vào kết quả kinh doanh của DN. + Đến thời điểm xác định giá trị DN, những tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản chờ thanh lý chưa được xử lý thì không tính vào giá trị DN. DN tiếp tục xử lý số tài sản này trước khi có quyết định giá trị DN. Đến thời điểm có quyết định giá trị DN, nếu còn tài sản chưa xử lý, DN có trách nhiệm bảo quản, chuyển giao cho công ty mua bán nợ và tài sản của DN để xử lý theo quy định hiện hành. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của DN không bán lại tài sản này cho DN. - Tài sản là công trình phúc lợi trước đây được đầu tư bằng nguồn quỹ phúc lợi, khen thưởng được xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Nghị định 187/2004/NĐ- CP. - Việc xác định giá trị và chia cổ phần cho người lao động đối với tài sản dùng trong sản xuất kinh doanh đầu tư bằng nguồn quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được xử lý theo quy định tại khoản 4 Điều 10 Nghị định 187/2004/NĐ- CP. Cổ phần chia cho người lao động được xác định theo giá đấu thành công bình quân. - Tài sản phúc lợi được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách, nếu DN cổ phần hoá tiếp tục sử dụng được tính vào giá trị DN cổ phần hoá. * Nợ phải thu Các khoản nợ phải thu được xử lý theo quy định, trong đó: - Đối với những khoản nợ phải thu có đủ tài liệu chứng minh không có khả năng thu hồi theo quy định hiện hành của nhà nước về xử lý nợ tồn đọng thì xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm cá nhân, tổ chức để xử lý bồi thường theo quy định của pháp luật hiện hành. Phần tổn thất sau khi xử lý DN dùng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi để bù đắp, nếu thiếu thì hạch toán vào chi phí kinh doanh của DN. - Đối với các khoản nợ phải thu quá hạn khác DN phải tiếp tục đòi nợ hoặc bán nợ cho công ty mua bán nợ và tài tồn đọng của DN theo giá thoả thuận, không được trực tiếp bán nợ cho khách nợ. Khoản tổn thất từ việc bán nợ được hạch toán vào chi phí kinh doanh. - Đối với các khoản DN đã trả trước cho người cung cấp hàng hoá, dịch vụ như: thiền thuê nhà, thiền thuê đất, tiền mua hàng, tiền công... nếu đã hạch toán hết vào chi phí kinh doanh, DN đối chiếu hạch toán giảm chi phí tương ứng vớ
Tài liệu liên quan