các ngân hàng có thể tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau như ngân hàng thương mại quốc doanh,ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,ngân hàng 100% vốn nước ngoài nhưng dù tổ chức ở một loại hình nào các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển đều cần một yếu tố hết sức quan trọng đó là vốn.vốn là cơ sở hinh thành,tổ chức hoạt động của ngân hàng cũng như quyết định quy mô và năng lục cạnh tranh của ngân hàng.
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng có thể huy động được dùng đê cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất vốn của ngân hàng thương mại là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện những mục đích khác nhau.Hay nói cách khác họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng để ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập.Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thực tệ ,làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn,kích thích hoạt động kinh doanh phát triển.Các hoạt động đó quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
48 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát tiển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 tổng quan về huy động vốn từ dân cư ở ngân hàng
thương mại
. Vai trò huy động vốn đối với ngân hàng thương mại
Các loại vốn của ngân hàng thương mại
khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
các ngân hàng có thể tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau như ngân hàng thương mại quốc doanh,ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,ngân hàng 100% vốn nước ngoài… nhưng dù tổ chức ở một loại hình nào các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển đều cần một yếu tố hết sức quan trọng đó là vốn.vốn là cơ sở hinh thành,tổ chức hoạt động của ngân hàng cũng như quyết định quy mô và năng lục cạnh tranh của ngân hàng.
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng có thể huy động được dùng đê cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất vốn của ngân hàng thương mại là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện những mục đích khác nhau.Hay nói cách khác họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng để ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập.Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thực tệ ,làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn,kích thích hoạt động kinh doanh phát triển.Các hoạt động đó quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Các loại vốn của ngân hàng thương mại
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng
Vốn chủ sở hữu là vốn do chủ sở hữu đóng góp và lợi nhuận được tích lũy trong quá trình kinh doanh. Đây là loại vốn mà ngân hàng có thể sử dụng lâu dài hình thành nên trang thiết bị nhà cửa cho ngân hàng.
Mặc dù chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình kinh doanh của ngân hàng.Nó đảm nhiệm chức năng chủ yếu sau:
Vốn chủ sở hữu dùng được bù đắp hay chống đỡ các rủi ro,nghĩa là nó tồn tại nhằm cung cấp một vùng đệm nhằn bù đắp tổn thất và cho phép ngân hàng tiếp tục tồn tại trong quá trình kinh doanh.
Vốn chủ sở hữu tạo cỏ sở niềm tin cho người gửi tiền và thu hút tiền gửi.Trong cùng điều kiện thì một ngân một ngân hàng có quy mô vốn lớn sẽ được dân chúng tin tưởng hơn la một ngân hàng nhỏ.
Vốn chủ sở hữu là nguồn hình thành nên quỹ đầu tư và cho vay.
các loại vốn chủ sở hữu của ngân hàng
Vốn điều lệ: là vốn được cấp hoặc đã góp của chủ sở hữu.Tùy theo tính chất ngân hang mà vốn điều lệ được hình thành khác nhau. Đối với ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước vốn điều lệ được cấp dưới hình thức bằng tiền và trái phiếu chính phủ; đối với ngân hàng thương mại cổ phần vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp; đối với ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp.
Các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ gồm hai khoản mục:
+ Các khoản mục trích từ lợi nhuận hàng năm
+Giá trị chênh lệch giữa giá bán cổ phần với giá cao hơn mệnh giá mỗi cổ phần.
Quỹ dự phòng tài chính: Nhà quản trị ngân hàng cho rằng khoản dự phòng tổn thất thất tín dụng phải được xem như bộ phận của vốn vì nó bù đắp sự thua lỗ (chức năng cơ bản của vốn).Theo quy định của pháp luật Việt Nam nguồn bù đắp tổn thất tín dụng bao gồm dự phòng để xử lý rủi ro và quỹ dự phòng tài chính.Dự phòng để xử lý rủi ro được hạch toán vào chi phí;còn dự phòng tài chính được trích từ lợi nhuận và được tích lũy qua nhiều năm.,vì vậy được coi là bộ phận của vốn ngân hàng.
Lợi nhuận không chia phản ánh lợi nhuận phát sinh trong hoạt động của ngân hàng không được chia cho cổ đông dưới dạng cổ tức bằng tiền và lập các quỹ theo quy định của pháp luật
Vốn huy động của ngân hàng
Vốn huy động của ngân hàng là khoản tiền được hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng .Bản chất vốn huy động của ngân hàng là những khoản tiền thuộc sở của nhiều cá nhân tổ chức khác nhau mà ngân hàng chỉ có quyền sử dụng và có nhiệm vụ hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng(chiếm từ 70%-80% tổng nguồn vốn ).Vốn huy động quyết định một phần đến lợi nhuận thu được của ngân hàng bởi vì khi huy động vốn ngân hàng phải trả phí huy động.Muốn kinh doanh có hiệu quả,ngân hàng phải có những biện pháp nhằm giảm đến mức tối thiểu chi phí của việc huy dộng ,chú ý đến nguyên tắc quản lí vốn trong ngân hàng.
b. Nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm:
-Tiền gửi :
Tiền gửi của khách hàng là nguòn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.Khi một ngân hàng thương mại bắt đầu hoật động ,nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng,bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các cá nhân doanh nghiệp, tổ chức và dân cư.
Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguòn vốn huy động của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền chất lượng ngày càng cao,các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.Nhìn chung các khoản mục ngân hàng huy động bao gồm :
+Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán):
Đây là tiền cảu doanh nghiềp hoặc cá nhân gứi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ .Trong phạm vi số dư cho phép,các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện.Các khoản thu bằng tiền của cá nhân và doanh nghiệp đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.Nhìn chung lãi suất của các khoản tiền này là rất thấp ,thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp .Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán(tài khoản có thể phát séc)cho khách hàng.Thủ tục mở rất đơn giản.Yêu cầu ngân hàng là khàch hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư.Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay(thấu chi-chi trội trên số dư có của tiền gửi thanh toán ).Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tiền gửi thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằmcạnh tranh với các tổ chức tín dụng .
+Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp,các tổ chức xã hội:
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định.Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạtđộng thanh toán song lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu càc tăng thu của người gửi tiền ,ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn.Người gửi không dược sử dụng các hình thức thanh toán đói với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này.nếu cần chi tiêu người gửi phải cần đến ngân hàng rút tiền ra.Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán nhưng tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn .
+Tiền gửi tiết kiệm của dân cư :
Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (khoản tiền tiết kiệm ) trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng ,họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằn thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc biệt là nhu cầu an toàn.Nhằmthu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm,các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các khoản khác nhau ,tiết kiệm bằng vàng bằng ngoại tệ…).Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều sổ tiết kiệm cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau.Sổ tiết kiệm không được dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu ngân hàng cho phép.
+Tiền gửi của các ngân hàng khác :
Nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác,ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác .Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn
c.Nguồn đi vay và nghiệp vụ đi vay của ngân hàng thưong mại
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.Tuy nhiên,khi cần, ngân hàng thường vay thêm.Tại nhiều nước,ngân hàng Trung ương thưòng quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ.Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
*Vay ngân hàng Trung ương
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại.Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ(thiếu dự trữ bắt buộc,dự trữ thanh toán),ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước .Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu(hoặc tái cấp vốn).Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu(hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ.Khi cần tiền ngân hàng thương mại mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại các ngân hàng Nhà nước.Nghiệp vụ này làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ(tiền mặt hoặc tiền gửi tại các ngân hàng Nhà nước) tăng lên.Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ,ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định .Thông thường các ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng(thời gian đáo hạn ngắn ,khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kì.Trong điều kiện chưa có thương phiếu,ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thưong mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
*Vay các tổ chứ tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trong thị trường liên ngân hàng .Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn.Ngược lại các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản .Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước.Quá trình vay mượn rất đơn giản.Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí(hoặc ngân hàng Nhà nước).Khoản vay có thể không cần đảm bảo,hoặc có thể đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc.Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
* Vay trên thị trường vốn.
Giống như các doanh nghiệp khác ,các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ(kì phiếu,tín phiếu,trái phiếu)trên thị trường vốn.Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gủi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn.Do vậy,các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các khoản tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.Thông thường đây là khoản tiền không đảm bảo.Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn.Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này,họ thường phải vay mượn thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được báo lãnh của ngân hàng Đầu tư.Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính,tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng .Nghiệp vụ vay mượn của ngân hàng tương đối phức tạp.Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô,mệnh giá ,lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp .Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất,bảo quản hộ cũng được các ngân hàng quan tâm.
d.Các nguồn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác,nguồn trong thanh toán và các nguồn khác.
*Nguồn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay,uỷ thác đầu tư,uỷ thác cấp phát,uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng.Ví dụ:Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho vay uỷ thác hộ cho Nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn ngân sách hay nguồn ODA.Theo hợp đồng giữa các bên,các nguồn vốn được chuyển về ngân hàng Nông nghệp và Phát triển nông thôn, để từ đó chuyển tải đến các địa điểm đã được xác định trước.Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phương ,rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển của ngân hàng,có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân sách như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu.Kết quả là hình thành các nguồn ủy thác ,làm gia tăng nguồn vốn ngân hàng.
*Nguồn vốn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dung tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả,tiền kí quỹ để mở L/C…) Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
1.2. Đặc điểm của các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1. Đặc điểm nguồn tiền gửi và các nhân tố ảnh hưỏng
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn.Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn,làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác.Thông thường nguồn này thưòng chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc,do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả tiền gửi. Ở nhiều nước ,nhà nước phải mua bảo hiểm cho tiền gửi.
Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn,thường nhạy cảm với các biến động của lãi suất,tỷ giá,thu nhập,chu kì chi tiêu và nhiều nhân tố khác.Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp,dân cư gửi và cho vay.Trong điều kiện có lạm phát ,người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm.Các yếu tố khác như địa điểm ngân hàng ,mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm ,các loại hình huy động đa dạng ,các dịch vụ đa dạng…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc nguồn tiền.Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn tiền.Vào dịp tết,nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút , đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến.Tại các thành phố lớn,nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn.Thu nhập gia tăng điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền.Khi ngân hàng mở rộng cho vay,tiền gửi của các doanh nghệp và cá nhân cũng gia tăng.Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh(kém ổn định) hơn tiền gửi tiết kiệm.
Các ngân hàng cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi thông qua nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền của các ngân hàng để có biện pháp quản lí và sử dụng thích ứng.Tuy nhiên ngân hàng thường khó biết được chính xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi.
1.2.2. Đặc điểm nguồn đi vay và các nhân tố ảnh hưởng khác.
Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi,trừ đi một số ngân hàng hoạt động bán buôn.Các khoản đi vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước,do vậy tạo thành nguồn ổn định cho các ngân hàng.Khác với nhận tiền gửi ngân hàng,không nhất thiết phải đi vay thường xuyên:ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết ,ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay với nhu cầu sử dụng.Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi.Tuy nhiên,do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất cho tiền gửi với cùng kì hạn.Các khoản vay ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn,chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng.Việc cho vay của ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà ngân hàng Nhà nước theo đuổi trong từng thời kì.Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán .Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng,một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vậy thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho các ngân hàng.Ngân hàng có thể sử dụng các nguồn này để cho vay các dự án,tài trợ trang thiết bị và bất động sản của các doanh nghiệp và người tiêu dung.Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô,sau đến là các kĩ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay.Mặc dù lãi suất thường cao hơn so với các nguồn khác,song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng dược các yêu cầu như ổn định,quy mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
1.2.3. Đặc điểm các nguồn khác
Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh nghĩa bằn không).Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể.Ví dụ để có các nguồn uỷ thác ngân hàng phải tìm kếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ,nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ…Nhìn chung các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn(trừ một số ngân hàng có dịch vụ uỷ thác cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế).Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
Chương 2 : thực trạng huy động vốn từ dân cư tại ngân hàng
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
2.1.1 cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà nội
Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà nội là đơn vi trực thuộc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam, được thành lập theo Quyết định số 51-QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của tổng giám đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện nay là Thống đốc Ngân hàng nhà Việt Nam.
Đến cuối năm 2007, chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội có 11 phòng ban và 11 chi nhánh cấp 2 trực thuộc và 38 phòng giao dịch hoạt động theo quy chế 454/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Hội đồng Quản trị Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Ban giám đốc:Gồm 1 giám đốc và các phó giám đốc trực tiếp quản ly điều hành toàn diện hoạt động kinh doanh tại trung tâm và các chi nhánh trục thuộc
2.1.1.1 .mạng lưới hoạt động của chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thông Hà Nội
Là một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất trên đia bàn thủ đô Hà Nội ,cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội lại thường xuyên có sự biến động,
Tháng 9 năm 1991,7 chi nhánh Ngân hàng huyện thị Mê Linh,Hoài Đức, Đan Phượng,Thạch Thất,Ba Vì,Phú Thọ,Thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú, Hà Tây.
Tháng 10 năm 1995, có 5 Chi nhánh Sóc Sơn, Đông Anh,Thanh Trì,Từ Liêm,Gia Lâm trở thành đơn vị trưch thuộc của Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển nông thôn Việt Nam.Lúc này Chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát Triển Nông thôn Hà Nội chỉ hoạt động trong pham vi thành phố Hà Nội.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã nhận rõ trách nhiệm của mình trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp,nông thôn,góp phần đổi mới nông thôn ngoại thành, đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa kinh tế Thủ đô Hà Nội.Do đó,Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã tìm các giải pháp tích cực khai thác được nhiều nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường,Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội trước hết đã mở rộng mạng lưới hoạt động để huy động và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn
Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực Chợ Hôm(nay la Hai Bà Trưng)
Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đồng Xuân (nay la Hoàn Kiếm)
Năm 1996 thành lập ngân hàng quận Tây Hồ,Ba Đình ,Thanh Xuân
Năm1997 thành lập Ngân hàng quận Cầu Giấy
Năm 2000 thành lập Ngân hàng quận Đống Đa và khu vực Tam trinh
Năm 2001 thành lậ