Đề tài Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC

Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về mọi của con người ngày càng tăng trong đó có nhu cầu được thăm khám chữa bệnh, tuy nhiên, do ở Việt nam, thị trường sản xuất các loại máy móc liên quan đến thiết bị, dụng cụ dùng trong y tế còn chưa phát triển, nên việc xuất hiện rất nhiều các doanh nghiệp thương mại kinh doanh nhập khẩu, mặt hàng này tại thị trường Việt Nam là điều phù hợp với quy luật cung cầu.

doc61 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về mọi của con người ngày càng tăng trong đó có nhu cầu được thăm khám chữa bệnh, tuy nhiên, do ở Việt nam, thị trường sản xuất các loại máy móc liên quan đến thiết bị, dụng cụ dùng trong y tế còn chưa phát triển, nên việc xuất hiện rất nhiều các doanh nghiệp thương mại kinh doanh nhập khẩu, mặt hàng này tại thị trường Việt Nam là điều phù hợp với quy luật cung cầu. Điều thu hút rất nhiều doanh nghiệp thương mại kinh doanh trên thị trường này là lợi nhuận đem lại khá lớn. Lợi nhuận chính là thỏi nam châm thu hút mọi hoạt động đầu tư trên thị trường. Khi bỏ tiền vào đầu tư, chủ đầu tư hy vọng sẽ thu đượcnhiều lợi nhuận, vậy làm cách nào để tối đa hoá chỉ tiêu này, là sự quan tâm lớn, không chỉ của chủ đầu tư, mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác như: Chính phủ, của chủ nợ,. .. Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận, không chỉ qua sách vở, mà còn qua thực tế hoạt động của Công ty TNHH Thương mại TBC, tôi xin chọn đề tài “ Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC.” Làm chuyên đề tốt nghiệp của mình, mong muốn góp sức mình vào việc đưa ra các giải pháp làm tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty . Bài viết này gồm ba phần chính: Chương 1: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Chương2: Thực trạng về lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại TBC. Chương 3: Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH thương mại TBC Bài viết được hoàn thành dưới sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Cô giáo hướng dẫn PGS – TS Lưu Thị Hương, cũng như các anh các chị, nhất là chị Phó giám đốc Nguyễn Ngọc Bích tại sơ sở thực tập. Em xinh chân thành cảm ơn! Chương 1: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp. Từ những năm 90 trở lại đây, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau ra đời, do cơ chế luật pháp thông thoáng, tư duy con người thay đổi và phát triển. Vậy doanh nghiệp là gì? Nó có phải đơn thuần chỉ là một cửa hàng buôn bán lặt vặt ngoài phố, hay những nhà xưởng sản xuất xe đạp Thống nhất, những bao phân lân để rồi khi không có tiền thì lấy chính sản phẩm đó trả thay tiền lương? Chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem doanh nghiệp sẽ được hiểu như thế nào là đúng nghĩa nhất. 1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Theo “Luật Doanh nghiệp” ban hành ngày 12/6/1999 thì : “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh”. Hoạt động kinh doanh ở đây được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như thế có thể hiểu doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở hữu. ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều loại hình doanh nghiệp như : Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Việc phân loại doanh nghiệp như vậy là dựa vào hình thức sở hữu vốn đầu tư: Doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn đầu tư do Nhà nước cấp phát, lãi thì Nhà nước thu một phần lợi nhuận, lỗ thì không phải nộp thuế, còn được cấp phát vốn. Điều này đã khiến cho đa số doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam làm ăn trở nên thua lỗ. Điều nguy hiểm hơn cả là trong nền kinh tế nước ta có tới 1/2 là doanh nghiệp Nhà nước nếu không nói là hầu như chỉ có doanh nghiệp Nhà nước những năm 90. Nhưng mọi việc ngày nay đã thay đổi, bên cạnh những doanh nghiệp Nhà nước còn có : * Công ty cổ phần – tức là doanh nghiệp mà vốn do nhiều thành viên đóng góp, những thành viên góp vốn gọi là cổ đông. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phiếu. *Công ty TNHH, vốn góp cũng do các thành viên công ty đóng góp. Tuy nhiên, số thành viên trong công ty không vượt quá 50 người và không được phát hành cổ phiếu. *Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp mà vốn do một thành viên đứng tên doanh nghiệp. Doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân, không được phát hành cổ phiếu, nguời sở hữu vón trong doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn về khoản nợ phát sinh trong doanh nghiệp. Đây là loại hình doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các mô hình kinh doanh khác như: Công ty hợp doanh, hộ gia đình, …. Ngoài việc phân chia theo hình thức góp vốn, ta có thể phân loại doanh nghiệp theo chủ thể kinh doanh: Kinh doanh cá thể(Sole Proprietorship), kinh doanh góp vốn (Parnership), công ty( Corporation). Kinh doanh cá thể là loại hình thành lập đơn giản nhất, không cần có điều lệ chính thưc và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Loại hình kinh doanh này không bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp mà tất cả lợi nhuận được tính vào thu nhập cá nhân. Đây là loại hình doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân, chủ doanh nghiệp phải chịu tránh nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ sở hữu doanh nghiệp. Khả năng thu hút vốn của loại hinh doanh nghiệp này bị hạn chế bởi nó phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của người chủ sở hữu. Kinh doanh góp vốn là loại hình doanh nghiệp rất phát triển ở nước ta hiện nay,do việc thành lập doanh nghiệp này hết sưc dễ dàng với chi phí thấp, một số trường hợp cần giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm của mình thì phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. Tuổi thọ của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên chính thức, doanh nghiệp sẽ tan vỡ nếu một thành viên chết hoặc rút vốn. Việc huy động vốn của loại hình doanh nghiệp này cũng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng, uy tín của các thành viên chính thức, do vậy nó cũng khá hạn chế. Lãi thu được từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Hình thức cuối cùng là công ty: đây là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông(chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, hoạt động và chính sách của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó HĐQT lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động theo nguyên tắc đem lại lợi ích tốt nhất cho các cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại lợi thế cho công ty so với kinh doanh cá thể và góp vón như: Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển nhượng cho cổ đông mới. Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào số lượng, tuổi thọ của các cổ đông. Trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn tại phần vốn góp của cổ đông vào công ty. Mỗi loại hình doanh nghiệp có các ưu nhược điểm riêng. Việc phân loại này chỉ mang tính tương đối. Trong bài viết này, các mô hình trên đều gọi chung là doanh nghiệp với chung mục tiêu hoạt động là tối đa hoá lợi nhuận . Ngày nay trong môi trường xã hội biến động theo từng giờ, mọi hoạt động, quyết định của doanh nghiệp chị sự tác động của môi trường mà nó tồn tại. Môi trường ở đây được hiểu là tổng hoá các yếu tố có thể làm thay đổi hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như: Sự quản lý của Nhà nước: Một cá nhân, tổ chức có thể tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, có thể đưa doanh nghiệp phát triển tới vị trí mong muốn. Nhưng sự thắt chặt hay nới lỏng của doanh nghiệp đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật, bằng cơ chế quản lý tài chính. Vì thế ta thấy, có một số lĩnh vực kinh tế thì rất phát triển cả về số lượng người kinh doanh, cả về quy mô nguồn vốn, nhưng một số lĩnh vực không phải ai kinh doanh cũng được, và với quy mô kinh doanh bao nhiêu là tuỳ thích. Bởi chúng chịu sự tác động của cơ chế quản lý của Nhà nước. Một số yếu tố nữa mà doanh nghiệp ngày càng thực sự phải đối đầu, đố là sự thay đổi của khoa học công nghệ. Sự thay đổi khoa học công nghệ diễn ra từng ngày, từng tháng đã mang lại rất nhiều thay đổi trong phương thức sản xuất, tạo ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính của doanh nghiệp, bởi nó không chỉ đem lại những cơ may mà còn đem đến rất nhiều những rủi ro lớn. Vì vậy, nhà quản lý luôn phải đối đầu với những rủi ro có thể xảy ra, để có thể ứng phó kịp thời, đúng đắn. Doanh nghiệp với sức ép từ phía thị trường, từ sự thay đổi tư duy con người, đã chuyển dần từ phương thức sản xuất kinh doanh cổ điển là chỉ quan tâm đến cái mà mình sản xuất, chuyển sang việc quan tâm cái mà thị trường cần. Việc tính đến sự tác động của môi trường , sự thay đổi không ngừng trong cung cách làm ăn của doanh nghiệp là để đạt được mục tiêu sự phát triển bền vững – tối đa hoá lợi nhuận. Nếu xa rời mục tiêu này, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại lâu được. Việc tìm hiểu chỉ tiêu này, sẽ thấy được tầm quan trọng của nó. 1. 1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp Khái niệm và nguồn gốc của lợi nhuận Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu để đánh giá sự làm ăn có hiệu quả hay không của doanh nghiệp. Sự thay đổi liên tục trong phương thức sản xuất kinh doanh, những chiến lược mới trong phương thức quản lý. Mục tiêu của nó là để cho doanh nghiệp có thể tồn tại bền vững và từ đó là đem lại nhiều lợi nhuận hơn nữa. Lợi nhuận : Chỉ tiêu mà mọi thời kỳ kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều quan tâm và lấy đó làm đích để hướng tới, từ đây cũng nảy sinh rất nhiều những quan điểm khác nhau về lợi nhuận - Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng, “cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo Adam Smith lợi nhuận là “ khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo Ricardo “ lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công” - K.Mark thì cho rằng “ giá trị thặng dư, hay phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay là lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận. - Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuelson và W. D . Nordhaus lại cho rằng “ lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ đi tổng số chi hay nó cách khác lợi nhuận được định ngiã là “sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí” của một doanh nghiệp. David Begg thì cho rằng lợi nhuận là “khoản dôi ra của doanh thu so với chi phí”. Các khái niệm trên tuy được phát biểu khác nhau song đều có điểm chung, là coi lợi nhuận là số phần thừa ra từ chênh lệch giữa những khoản thu được và chi phí phải bỏ ra. Đứng về phía góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản còn lại của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí ( chi phí nguyên vật liệu, tiền lương, thuế thu nhập doanh nghiệp.. Lợi nhuận được định nghĩa như vậy, thế nhưng xuất phát từ đâu để có các khoản lợi nhuận đó, đây quả thật là vấn đề gây nhiều tranh cãi. - Phái trọng thương thì cho rằng “ lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông” - Phái trọng nông lại quan niệm “ Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần tuý là tặng vật của thiên nhiên và của nông nghiệp, là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý” - Phái cổ điển mà nổi tiếng là A. Smith là người đầu tiên tuyên bố rằng “ lao động nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư” và chính ông ta lại khẳng định giá trị hàng hoá bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô. Còn theo Ricardo thì “ Giá do lao động của công nhân sáng tạo ra, là nguồn gốc sinh ra tiền lương, lợi nhuận cũng như địa tô” Từ hai quan điểm được phát biểu trên, chúng ta thấy rằng cả Adam Smith và Ricardo đều đã lẫn lộn giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Với tư duy duy vật biện chứng, K.Mard đã xây dựng thành công lý luận về hàng hoá sức lao động_cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến kết luận:” Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận” Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự phân tích thực tế thì kết luận lợi nhuận của doanh nghiệp gồm: Thu nhập từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư trong kinh doanh, phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền. Việc hiểu rõ bản chất của lợi nhuận là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là với các nhà quản trị doanh nghiệp , để từ đó họ có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách hợp lý, đúng đắn, từ đó có thể đưa ra các biện pháp khác nhau làm tăng cao lợi nhuận. Phân phối lợi nhuận: Quá trình sản xuất , kinh doanh là quá trình tuần hoàn liên tục, chu kỳ này nối tiếp chu kỳ khác. Để có thể tiếp tục vòng quay này phải có vốn đầu tư vào, điều này không thể mãi đòi hỏi từ chủ sở hữu bởi không ai có một nguồn lực vô hạn như vậy. Để có thể tái mở rộng sản xuất, lợi nhuận chính là nguồn lực cần thiết và cần phải có. Người ta sẽ phân chia khoản lợi nhuận đó như thế nào? Giữ lại toàn bộ để tiêu dùng? Đầu tư toàn bộ vào tái sản xuất haycó những phương thức nào khác? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào người chủ doanh nghiệp. Nhưng hiện nay có một phương pháp chung mà các doanh nghiệp hay áp dụng để phân phối lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp một phần dùng để chia lãi cổ phần, còn lãi là lợi nhuận không chia. Tỷ lệ phần lợi nhuận chia lãi và không chia tuỳ thuộc vào chính sách của Nhà nước (Đối với doanh nghiệp Nhà nước) hay chính sách cổ tức cổ phần của đại hội cổ đông ( Đối với doanh nghiệp khác) ở mỗi doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam, lợi nhuận sau thuế sau khi nộp phạt và các khoản khác nếu có được trích lập các quỹ của doanh nghiệp như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Các quỹ doanh nghiệp: + Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được sử dụng vào các mục đích sau: Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh Đổi mới , thay thế thiêt bị máy móc, dây chuyền công nghệ, nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đổi mới trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp. Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ cho các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Bổ sung vốn lưu động. Tham gia liên doanh, liên kết, mua cổ phiếu. Trích nộp cấp trên ( Nếu có) +Qũy dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những thiệt hại, tổn thất về tài sản do thiên tai, những rủi ro trong kinh doanh không được tính vào giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm. Trích nộp để hình thành quỹ dự phòng tài chính của tổng công ty (nếu là thành viên của tổng công ty) theo tỷ lệ do hội đồng quản trị tổng công ty quyết định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ tổn thất, thiệt hại trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành viên theo quy chế quản lý tài chính của tổng công ty. + Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người đang làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hay chuyển sang công việc mới. Trợ cấp cho người lao động theo nguyên nhân khách quan như: lao động dôi ra do thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong khi chưa bố trí công việc khác hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc. Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm Giám đốc và Chủ tịch Công đoàn xét cụ thể theo pháp luật hiện hành. +Quỹ phúc lợi: Quỹ này dùng để xây dựng, sửa chữa, bổ xung các công trìng phúc lợi chung trong nghành, hoặc với các đơn vị khác theo thoả thuận, chi cho hoạt động phúc lợi xã hội, thể thao, văn hóa, phúc lợi công cộng của toàn thể công nhân viên trong doanh nghiệp; đóng góp cho quỹ phũc lợi xã hội( các hoạt động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng…);… Ngoài ra, doanh nghiệp sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của doanh nghiệp đã về hưu, mất sức hay lâm vào cảnh khó khăn,không nơi nương tựa Ngoài các loại quỹ trên người ta còn phân chi lợi nhuận để hình thành nên quỹ khen thưởng. + Quỹ khưn thưởng dùng để : Thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, mức thưởng do HĐQT, Giám đốc( nếu doanh nghiệp không có HĐQT) quyết định sau khi có ý kiến tham gia của Công đoàn doanh nghiệp trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác và mức lương cơ bản của mỗi cán bộ, CNV trong doanh nghiệp. Thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh. Việc phân chia lợi nhuận ra thành các quỹ là việc làm cần thiết, nó có thể giúp cho doanh nghiệp phản ứng một cách nhanh chóng đối với những rủi ro sảy ra và khích lệ tinh thần cho các cá nhân có thành tích. Ngoài ra, việc phân chia lợi nhuận thành quỹ dự phòng tài chính tạo ra một tâm lý an tâm hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Qua một số phân tích ở trên, ta có thể thấy đựơc lợi nhuận là vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp. Vậy ngoài doanh nghiệp ra, lợi nhuận còn có vai trò nào khác? Chúng ta sẽ xem xét ở phần dưói đây: Vai trò của lợi nhuận. Lợi nhuận không chỉ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là nguồn dinh dưỡng chính nuôi dưỡng nền kinh tế của một quốc gia. Lấy gì để thu thuế khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ? Việc xem xét vai trò của lợi nhuận đối với từng đối tượng cụ thể sẽ làm chúng ta hiểu tầm quan trọng của nó. *Đối với doanh nghiệp Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu tổng hộp nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động cơ, mục đích của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra để kinh doanh. Điều này được thể hiện: Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ xung vốn vào mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi nhuận, lập các quỹ trong doanh nghiệp như: Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…Từ các quỹ này, doanh nghiệp có thể bổ xung vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất – kinh doanh đòi hỏi. Và cũng chính từ các quỹ này, doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần khuyến khích người lao động gắn bó với công việc, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh doanh phát triển. Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các nghĩa vụ với Nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Lợi nhuận là nguồn tài chính để doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay các khoản bị phạt do chậm nộp thuế, do vi phạm hợp đồng. Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ khả năng tái sản xuất giản đơn( bù đắp hao phí trong quá trình sản xuất – kinh doanh) thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, ứng dung khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất – kinh doanh giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và có uy tín. * Đối với người lao động Lợi nhuận là nguồn chính để doanh nghiệp trích lập quỹ: quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, giải quyết nhu cầu xã hội cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn để trích lập các quỹ này càng lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện nâng cao tinh thần, vật chất cho cán bộ công nhân viên, từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong quá trình làm việc. Chính vì thế, việc sản xuất có lãi ngày càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở rộng mà còn là quyền lợi thiết thựccủa CBCNV trong doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh: áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc , có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm, đặ
Tài liệu liên quan