Trong nền kinh tế hiện nay, các DNVVN là một tế bào không thể thiếu bởi nó ngày càng có nhiều của cải đóng góp cho xã hội. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới cho thấy việc phát triển DNVVN sẽ tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, nguồn công nghệ. Tạo ra nhiều của cải vật chất, phân phối lưu thông giúp nền kinh tế ổn định, đứng vững khi mà chu kì khủng khoảng và suy thoái trên thế giới đang ngày càng có xu hướng ngắn lại.
Những nước có nền kinh tế phát triển mạnh thì tỉ lệ DNVVN chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Cụ thể như ở Mỹ, DNVVN chiếm 90% tổng số hãng kinh doanh có thuê công nhân, thu hút 52% lao động, chiếm 31% kim nghạch xuất khẩu hàng hoá (năm 2000). Còn ở Nhật theo số liệu năm 1998 DNVVN chiếm 99.7% tổng số DN cả nước, sử dụng 70% lao động, tạo ra 40% doanh thu và 60% giá trị gia tăng toàn khu vực nông nghiệp.
Như vậy loại hình DNVVN đã rất phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới, ở Việt Nam trước đây loại hình doanh nghiệp này chưa thực sự được đầu tư quan tâm. Nhưng trước nhu cầu phát triển của đất nước cũng như quá trình hội nhập với trong khu vực và trên thế giới thì vai trò của DNVVN đã phát huy tác dụng. Nhận thức được tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo điều kiện cho DNVVN phát triển. Hiện nay nước ta có khoảng 70% đến 80% DNVVN trong tổng số các doanh nghiệp và hàng năm các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 25% GDP cho ngân sách Nhà Nước .
Với đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhất là DNVVN. Do xuất phát điểm của nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu thị trường vốn kém phát triển nên gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mở rộng phát triển sản xuất. Bên cạnh đó nhiều DNVVN chưa đủ uy tín để vay vốn, lại chưa có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp này. Vì thế Nhà Nước cũng như bản thân các doanh nghiệp phải tìm ra những giải pháp thích hợp để đẩy lùi khó khăn
Một trong những yếu tố đầu tiên để cho DNVVN phát triển là nhu cầu vốn, ngoài nguồn vốn tự có nhỏ bé doanh nghiệp cần đượchỗ trợ từ các nguồn bên ngoài nhất là nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Nhưng có một thực tế là có những doanh nghiệp vay vốn ngân hàng song lại sử dụng không có hiệu qủa, vì thế mà việc tìm ra giải pháp tín dụng đối với DNVVN đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu về Chi nhánh NHCT Thái Nguyên em đã chọn đề tài: ‘‘Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Nguyên”.
69 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế hiện nay, các DNVVN là một tế bào không thể thiếu bởi nó ngày càng có nhiều của cải đóng góp cho xã hội. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới cho thấy việc phát triển DNVVN sẽ tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, nguồn công nghệ... Tạo ra nhiều của cải vật chất, phân phối lưu thông giúp nền kinh tế ổn định, đứng vững khi mà chu kì khủng khoảng và suy thoái trên thế giới đang ngày càng có xu hướng ngắn lại.
Những nước có nền kinh tế phát triển mạnh thì tỉ lệ DNVVN chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Cụ thể như ở Mỹ, DNVVN chiếm 90% tổng số hãng kinh doanh có thuê công nhân, thu hút 52% lao động, chiếm 31% kim nghạch xuất khẩu hàng hoá (năm 2000). Còn ở Nhật theo số liệu năm 1998 DNVVN chiếm 99.7% tổng số DN cả nước, sử dụng 70% lao động, tạo ra 40% doanh thu và 60% giá trị gia tăng toàn khu vực nông nghiệp...
Như vậy loại hình DNVVN đã rất phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới, ở Việt Nam trước đây loại hình doanh nghiệp này chưa thực sự được đầu tư quan tâm. Nhưng trước nhu cầu phát triển của đất nước cũng như quá trình hội nhập với trong khu vực và trên thế giới thì vai trò của DNVVN đã phát huy tác dụng. Nhận thức được tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo điều kiện cho DNVVN phát triển. Hiện nay nước ta có khoảng 70% đến 80% DNVVN trong tổng số các doanh nghiệp và hàng năm các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 25% GDP cho ngân sách Nhà Nước .
Với đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhất là DNVVN. Do xuất phát điểm của nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu thị trường vốn kém phát triển nên gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mở rộng phát triển sản xuất. Bên cạnh đó nhiều DNVVN chưa đủ uy tín để vay vốn, lại chưa có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp này. Vì thế Nhà Nước cũng như bản thân các doanh nghiệp phải tìm ra những giải pháp thích hợp để đẩy lùi khó khăn
Một trong những yếu tố đầu tiên để cho DNVVN phát triển là nhu cầu vốn, ngoài nguồn vốn tự có nhỏ bé doanh nghiệp cần đượchỗ trợ từ các nguồn bên ngoài nhất là nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Nhưng có một thực tế là có những doanh nghiệp vay vốn ngân hàng song lại sử dụng không có hiệu qủa, vì thế mà việc tìm ra giải pháp tín dụng đối với DNVVN đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu về Chi nhánh NHCT Thái Nguyên em đã chọn đề tài: ‘‘Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá một cách tổng quát thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN tại Thái Nguyên và hoạt động đầu tư tín dụng của chi nhánh NHCT Thái Nguyên cho loại hình doanh nghiệp này. Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số giải pháp tín dụng nhằm góp phần phát triển DNVVN trên địa bàn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng cho các DNVVN của Chi nhánh NHCT Thái Nguyên, phạm vi nghiên cứu và số liệu thu thập từ Chi nhánh NHCT Thái nguyên trong thời gian năm 2001, 2002, 2003.
4 Phương pháp nghiên cứu
Trong qúa trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và giải thích thực tiễn như phương pháp: biện chứng duy vật, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế…
5. Kết cấu đề tài
Tên đề tài: “Giải pháp tín dụng nhằm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng công thương Thái Nguyên”
- Phần mở đầu
- Phần nội dung.
Trong phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng đầu tư tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Thái Nguyên.
Chương 3: Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng công thương Thái Nguyên
- Phần kết luận
Chương 1 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ - VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp là một tổ chức hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế, nhưng để đưa ra một khái niệm cụ thể về doanh nghiệp thì lại có nhiều quan điểm khác nhau. Theo DLarue-Acitlat: “doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất và là một đơn vị phân phối… doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục tiêu và quản lý theo hướng tạo ra lợi nhuận hùng mạnh, vĩnh cửu...” (Kinh tế nông nghiệp- NXB Khoa học kỹ thuật 1994). Còn theo Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam: ‘‘Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo qui đinh của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh”
Như vậy doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức hoạt động kinh tế có tư cách pháp nhân, được thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định với mục đích thu được lợi nhuận hoặc công ích.
Trong nền kinh tế thi trường có rất nhiều doanh nghiệp ta có thể phân theo một số các tiêu thức:
- Theo qui mô sản xuất hoạt động: doanh nghiệp qui mô lớn, doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ
- Theo cấp quản lý: doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp điạ phương, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp.
Theo ngành kinh tế kỹ thuật: doanh nghiệp nghành công nghiệp, doanh nghiệp ngành thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp ngành nông- lâm nghiệp, doanh nghiệp ngành tài chính, doanh nghiệp ngành phi tài chính.
DNVVN là một trong số các doanh nghiệp được phân loại theo tiêu thức trên, nó đang tồn tại và phát triển rộng trong nền kinh tế thị trường. DNVVN cũng mang những đặc điểm chung giống như các loại hình doanh nghiệp khác nhưng lại có những đặc điểm riêng mà chỉ có ở những doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Vậy doanh nghiệp thế nào là được coi là DNVVN, tuỳ vào điều kiện của từng nước khác nhau thì đưa ra các khá niệm khác nhau. Nhưng để căn cứ chính xác thường phải dựa vào vốn tự có, số người lao động làm việc trong doanh nghiệp, giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp…Như theo quan điểm của Mỹ mức lợi nhuận hàng năm dưới 150.000 USD được coi là DNVVN, theo quan điểm của Thái Lan doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200 lao động, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có dưới 50 lao động. Còn ở Việt Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 23/11/2001 thì DNVVN được hiểu: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo nghị định này thì DNVVN sẽ bao gồm các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp, các hợp tác xã hoạt động theo luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNVVN cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp thì nó cũng mang những đặc trưng riêng xuất phát từ chính khái niệm của nó.
Một là: Vốn tự có thấp không quá 10 tỷ đồng, chu kỳ kinh doanh ngắn nên các doanh nghiệp này có thời gian hoàn vốn ngắn hơn nhiều so với các tổ chức kinh tế có qui mô lớn
Hai là: Những DNVVN sản xuất thường không có tính ổn định trên thị trường, nên cơ cấu mặt hàng sản phẩm dịch vụ thường xuyên thay đổi và không lớn về số lượng.
Ba là: Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, các mối quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh, vì thế có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với biến động của nền kinh tế. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người lao động thường rất chặt chẽ.
Bốn là: Ngành nghề hoạt động của DNVVN rất đa dạng và phong phú nhờ vậy mà việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp ngân hàng phân tán rủi ro hoặc gây rủi ro nhưng biến động không nhiều đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Năm là: Tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn doanh nghiệp lớn nên hiệu suất làm việc cao hơn.
Sáu là: Khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này còn thấp do hạn chế vốn, trình độ công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thị trường kém. Đây chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho các DNVVN vay vốn.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh với sự biến động trên thị trường và thường các DNVVN rất dễ đáp ứng được các yêu cầu đó . Vì thế loại hình doanh nghiệp này ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là ở nước ta khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng lực lượng lao động dồi dào môi trường kinh doanh lại đang được Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi
Một là: DNVVN góp phần thu hút tối đa mọi nguồn lực trong dân, giải quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế:
Với qui mô tổ chức gọn nhẹ đa rạng nhiều nghành nghề đã thu hút được nhiều lao động, giải quyết được tình trạng thất nghiệp và tận dụng tốt sự bỏ ngỏ một số nghành kinh tế mà các doanh nghiệp lớn chưa kinh doanh hoặc không đủ sức đảm trách vì đó không phải là nghành có tầm quan trọng sống còn đối với nền kinh tế . Theo thống kê DNVVN thu hút khoảng 64,8% lực lượng lao động mỗi năm (Thông tin NHCTVN-số 1/2004). Như vậy các DNVVN đã điều tiết phân giải lực lượng lao động trên các khu vực còn nhiều “khoảng trống”, góp phần giãn cách điều hoà nhu cầu lao động tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế. Trình độ của lực lượng lao động ở nước ta còn thấp ,tiềm năng phát triển của nền kinh tế lại lớn .Vì vậy chỉ có các DNVVN mới có thể thực hiện tốt điều đó.
Hai là: DNVVN tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động và cải thiện đời sống dân cư:
Do có lợi thế là chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được doanh nghiệp chính điều đó thể hiện tính năng động tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với nhu cầu thay đổi thường xuyên của người tiêu dùng nên DNVVN trong những năm qua phát triển khá nhanh. Sau 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp ở Việt Nam đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng ký với số vốn hơn 145.000 tỷ đồng. Đến nay cả nước đã có hơn 120.000 doanh nghiệp, 15.000 hợp tác xã, 13.000 trang trại và gần 3.000.000 hộ kinh doanh cá thể, trên 10.000.000 hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Đây là lực lượng đóng góp to lớn vào sự phát triển tăng trưởng cuả nền kinh tế tạo ra 25% GDP của cả nước mỗi năm (thông tin NHCTVN-1/2004). Đời sống của người lao động được cải thiện, kỹ thuật sản xuất của DNVVN chủ yếu là trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, chế biến nông lâm sản... nên có khả năng thu hút nhiều lao động tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao động. Trong khi các doanh nghiệp lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các doanh nghiệp tự động hoá làm cho số người thât nghiệp ngày càng tăng phát sinh nhiều tiêu cực xã hội
Như vậy DNVVN cũng là một nguồn thu thêm cho ngân sách Nhà nước bởi số lượng doanh nghiệp ngày càng đông , giá trị kinh tế tạo ra ngày càng nhiều, giải quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay của nước ta do hạn chế về vốn kỹ thuật vì vậy Nhà nước cần phải có các chính sách thích hợp tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ba là: DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, và tham gia vào quá trình lưu thông .
DNVVN đáp ứng ngày càng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Bởi có những mặt hàng mà người tiêu dùng có nhu cầu ít, cá biệt song chất lượng, chủng loại, mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được nhưng DNVVN do có qui mô sản xuất nhỏ nên có khả năng điều chỉnh sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Nên hàng năm giá trị sản xuất của DNVVN luôn chiếm tỉ trọng khoảng hơn 50% tổng giá trị sản xuất của tổng các doanh nghiệp cả nước.
Trong quá trình tái sản xuất hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải trải qua khâu trung gian, đó là khâu lưu thông do các cửa hàng bán buôn, bán lẻ đảm nhận. Với lợi thế sẵn có DNVVN đã thực hiện vai trò này rất tốt vì hệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ vừa và nhỏ đặt ở khắp các đường phố, các khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng.
Có thể nói rằng DNVVN ngày càng tham gia tích cực vào các mối quan hệ kinh tế của xã hội, chiếm tỉ trọng về số lượng, giá trị sản xuất tạo ra ngày càng nhiều. Từ đó cho thấy sự quan tâm tạo điều kiện từ phía Nhà Nước, ngân hàng về vốn, hệ thống luật, môi trường kinh doanh là rất cần thiết cho các DNVVN.
Bốn là: DNVVN có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương và khai thác thế mạnh tiềm năng của từng vùng:
Xuất phát từ lợi thế qui mô vừa và nhỏ dễ thuận lợi cho việc thành lập ở mọi nơi nên tuỳ vào từng đặc điểm của từng loại lãnh thổ, thì có các DNVVN kinh doanh sản xuất các mặt hàng khác nhau để phục vụ người tiêu dùng và kiếm lợi nhuận cho mình từ các tiềm năng thế mạnh của vùng . Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất đa dạng nên các DNVVN ở từng địa phương sản xuất và kinh doanh những mặt hàng cũng khác nhau. Chính nhờ đặc điểm này mà DNVVN đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là khu vục nông nghiệp, tạo ra sự phát triển cân đối trên toàn quốc theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Sáu là: DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế, thúc đẩy thị trường vốn, thị trường tín dụng phát triển.
DNVVN hoạt động đa rạng trên nhiều lĩnh vực, đã tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Phát triển DNVVN tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá dịch vụ với chất lưọng cao là cơ hội thuận tiện cho người tiêu dùng lựa chọn so sánh.Như vậy chính điều này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là luôn phải nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng làm cho nền kinh tế thị trường trở nên sôi động
Sự xuất hiện của các DNVVN tạo ra một nhóm khách hàng thường xuyên cho các Ngân hàng, để sản xuất kinh doanh các DNVVN cần phải có vốn trong khi đó vốn tự có của họ nhỏ bé không đủ đáp ứng vì vậy các DN này cần phải đi vay mượn trên thị trường thương mại. Nhưng không phải lúc nào các DN bạn hàng cũng thừa vốn để cho mượn nên các DNVVN sẽ đi vay ngân hàng. Hiện nay các DNVVN không chỉ vay vốn qua ngân hàng mà còn thanh toán qua ngân hàng, điều đó có nghĩa ngân hàng vừa là người cho vay vừa là trung gian thanh toán phục vụ cho các nhà kinh doanh. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về qui mô, về chất lượng các DNVVN đã tạo ra một nhu cầu lớn với Ngân hàng đó là nhu cầu về vốn, nhu cầu về thanh toán dịch vụ qua Ngân hàng. Có thể nói loại hình doanh nghiệp này là thị trường đầy triển vọng của ngân hàng .
DNVVN ngày càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Dù không phải là chủ đạo nhưng tiện ích của DNVVN thì lại rất lớn, không chỉ làm tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Hiện nay, các DNVVN ở Việt Nam chưa thực sự phát triển theo đúng tiềm năng vốn có. Bởi nền kinh tế nước ta còn đang ở trong gia đoạn thấp, nhất là gia đoạn chuyển đổi kinh tế hàng hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Các DNVVN còn bộc lộ nhiều yếu kém trong quá trình hoạt động, do đó rất cần được quan tâm hỗ trợ từ các phía.
1.1.4 Điều kiện để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Phát triển có nghĩa là sự vật thay đổi theo chiều hướng tốt lên. Doanh nhgiệp phát triển có nghĩa là doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt hơn phục vụ có ích cho xã hội. Từ đó tăng thu nhập cho người lao động, tăng tích luỹ để mở rộng sản xuất, muốn cho nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì quốc gia đó phải quan tâm tới mọi loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt là loại hình DNVVN vì số lượng của nó ngày càng chiếm đại đa số trong nền kinh tế, để các DNVVN phát triển cần phải tạo các điều kiện nhất định như
* Điều kiện về vốn tài chính
Vốn là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh. Điều kiện về vốn là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển các doanh nghiệp nói chung và nhất là DNVVN. Hiện nay các DNVVN rất hạn hẹp về vốn, nguyên nhân là do qui mô hoạt động của doanh nghiệp nhỏ không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và khả năng tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng lại hạn chế vì không đủ tài sản thế chấp, mức lãi suất cho vay quá cao so với mức lợi nhuận thu được, thời gian cho vay ngắn... Đây là khó khăn rất lớn với cả doanh nghiệp và Ngân hàng, nếu vấn đề này được giải quyết thì đây chính là tiền đề để doanh nghiệp phát triển.
* Điều kiện thị trường
Thị trường là nơi doanh nghiệp tồn tại và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng qua thị trường doanh nghiệp biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Thị trường được hiểu bao gồm cả thị trường yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra của sản phẩm. Với đặc điểm và ưu thế của mình, các DNVVN nên tập trung vào những thị trường nhỏ đầu tư vào những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh và phát triển không ngừng, các DNVVN cũng cần phải quan tâm đến thị trường các địa phương khác và vươn ra thị trường quốc tế, hướng vào những sản phẩm có chất lượng và có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khai thác một cách tối đa thị trường trong tầm tay để từ đó phát triển ra thị trường rộng hơn, chính điều này cũng ảnh hưởng không ít tới sự phát triển của doanh nghiệp.
* Điều kiện về cơ sở vật chất.
Trước sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ trên thế giới, buộc các doanh nghiệp nhất là các DNVVN ngừng cải tiến thiết bị công nghệ cho phù hợp với thời đại để nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Điều kiện thiết bị sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả của công tác quản lý.
Các yếu tố về cơ sở hạ tầng là những điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp có thêm thuận lợi trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy để có thể giúp các DNVVN thì rất cần phải quan tâm đến vấn đề này.
* Điều kiện về khả năng lãnh đạo kinh doanh của chủ doanh nghiệp.
Lãnh đạo doanh nghiệp là người điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một trong những cản trở lớn đối với sự phát triển của các DNVVN là trình độ cuả người lãnh đạo bị hạn chế. Lãnh đạo doanh nghiệp phải biết thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích và đánh giá các loại thông tin kinh tế - kỹ thuật, từ đó đề ra chiến lược đúng đắn cho doanh nghiệp. Để thực hiện được các yêu cầu đó đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi.
* Điều kiện về tri thức tay nghề của người lao động.
DNVVN sử dụng rất nhiều nhân công, song hầu hết đều có trình độ tay nghề thấp nhưng lại rất quan trọng vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Nếu như trình độ của người quản lý tốt luôn tạo những cơ hội cho người lao động phát triển, khi người lao động có tri thức có tay nghề cao sẽ làm ra nhiều sản phẩm đẹp với chất lượng và năng suất cao. Điều kiện này rất cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp.
* Điều kiện về hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà Nước.
Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà Nước tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có cả sự