Trong thời kỳ nền kinh tế tập trung bao cấp, hoạt động của hệ thống Ngân hàng mà lúc đó là hệ thông ngân hàng một cấp (vừa đảm nhận chức năng quản lý nhà nước, vừa thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ) được thực hiện theo kế hoạch chỉ đạo của Nhà nước. Có nghĩa là, nguồn vốn đầu vào của Ngân hàng nhà nước được nhà nước cấp và lượng vốn cung ứng ra thị trường cũng được thực hiện theo kế hoạch phát triển đã đề ra. Như vậy, hoạt động ngân hàng của chúng ta vẫn chưa mang đúng nghĩa của nó.
Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được phân chia làm hai cấp : Ngân hàng nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng. Nhờ sự phân biệt rõ ràng như vậy mà hoạt động của hệ thống Ngân hàng dần hoàn thiện và phát triển. Nhất là trong những năm gần đây, hoạt động của các ngân hàng thương mại phát triển mạnh mẽ. Để thực hiện đường nối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, các ngân hàng thương mại đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ các hoạt động của mình như: tăng cường huy động vốn từ nhiều nguồn, chú ý phát triển hoạt động makerting ngân hàng – chủ động tìm khách hàng thay vì chờ khách hàng đến với mình như trước, nâng cao chất lượng công nghệ ngân hàng, đổi mới cách thức tổ chức và điều hành tất cả những điều đó đã góp phần không nhỏ cho sư nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi “lời ăn- lỗ chịu”. Trong lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng bao gồm rất nhiều hoạt động: hoạt động tín dụng, thanh toán, chuyển hoá vốn và các dịch vụ khác, trong đó hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng, đây là hoạt động quan trọng nhất và mang lại 80%-90% lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Chính vì tính quan trọng của nó mà các khoản tín dụng do ngân hàng thương mại cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh doanh (thu được gốc + lãi đúng hạn và lãi thu được phải bù đắp được chi phí, tạo ra được lợi nhuận cho hoạt động tín dụng). Nhưng nền kinh tế thị trường là kinh tế của sự cạnh tranh gay gắt và luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Trong cuộc cạnh tranh đó sẽ có một người thắng và nhiều kẻ thất bại. Cũng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, chỉ đặc biệt hơn là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, các ngân hàng thương mại không thể chối bỏ được quy luật cạnh tranh này. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại luôn phải khắc phục những rủi ro trong bất cứ hoạt động nào của mình: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro chuyển hoá vốn, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái Trong đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro mà hậu quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác, ảnh hưởng đến chính sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: Nguyên nhân từ phía khách hàng, từ phía ngân hàng, từ khả năng lắm bắt thông tin nhưng nguyên nhân chủ yếu là từ phía khách hàng, có nghĩa là khách hàng không trả được nợ vay cho ngân hàng vào thời điểm đáo hạn. Như vậy sẽ gây ra rủi ro đọng vốn hay rủi ro mất vốn cho phía ngân hàng.
Từ những phân tích trên cho ta thấy rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được xuất phát từ khoản nợ mà khách hàng không trả được cho ngân hàng khi đến hạn, hay còn gọi đó là các khoản nợ quá hạn .
Chính vì vậy, Để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh tín dụng thì trước hết ta phải có những biện pháp để phòng ngừa và hạn chế khả năng xuất hiện nợ quá hạn, giảm thiểu những tổn thất mà nợ quá hạn gây ra.
Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á- chi nhánh Hà Nội, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giải pháp xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội.”
125 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Trong thời kỳ nền kinh tế tập trung bao cấp, hoạt động của hệ thống Ngân hàng mà lúc đó là hệ thông ngân hàng một cấp (vừa đảm nhận chức năng quản lý nhà nước, vừa thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ) được thực hiện theo kế hoạch chỉ đạo của Nhà nước. Có nghĩa là, nguồn vốn đầu vào của Ngân hàng nhà nước được nhà nước cấp và lượng vốn cung ứng ra thị trường cũng được thực hiện theo kế hoạch phát triển đã đề ra. Như vậy, hoạt động ngân hàng của chúng ta vẫn chưa mang đúng nghĩa của nó.
Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được phân chia làm hai cấp : Ngân hàng nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các ngân hàng thương mại thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng. Nhờ sự phân biệt rõ ràng như vậy mà hoạt động của hệ thống Ngân hàng dần hoàn thiện và phát triển. Nhất là trong những năm gần đây, hoạt động của các ngân hàng thương mại phát triển mạnh mẽ. Để thực hiện đường nối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, các ngân hàng thương mại đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ các hoạt động của mình như: tăng cường huy động vốn từ nhiều nguồn, chú ý phát triển hoạt động makerting ngân hàng – chủ động tìm khách hàng thay vì chờ khách hàng đến với mình như trước, nâng cao chất lượng công nghệ ngân hàng, đổi mới cách thức tổ chức và điều hành…tất cả những điều đó đã góp phần không nhỏ cho sư nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi “lời ăn- lỗ chịu”. Trong lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng bao gồm rất nhiều hoạt động: hoạt động tín dụng, thanh toán, chuyển hoá vốn và các dịch vụ khác, trong đó hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng, đây là hoạt động quan trọng nhất và mang lại 80%-90% lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Chính vì tính quan trọng của nó mà các khoản tín dụng do ngân hàng thương mại cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh doanh (thu được gốc + lãi đúng hạn và lãi thu được phải bù đắp được chi phí, tạo ra được lợi nhuận cho hoạt động tín dụng). Nhưng nền kinh tế thị trường là kinh tế của sự cạnh tranh gay gắt và luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Trong cuộc cạnh tranh đó sẽ có một người thắng và nhiều kẻ thất bại. Cũng là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, chỉ đặc biệt hơn là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, các ngân hàng thương mại không thể chối bỏ được quy luật cạnh tranh này. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại luôn phải khắc phục những rủi ro trong bất cứ hoạt động nào của mình: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro chuyển hoá vốn, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái…Trong đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro mà hậu quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác, ảnh hưởng đến chính sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: Nguyên nhân từ phía khách hàng, từ phía ngân hàng, từ khả năng lắm bắt thông tin nhưng nguyên nhân chủ yếu là từ phía khách hàng, có nghĩa là khách hàng không trả được nợ vay cho ngân hàng vào thời điểm đáo hạn. Như vậy sẽ gây ra rủi ro đọng vốn hay rủi ro mất vốn cho phía ngân hàng.
Từ những phân tích trên cho ta thấy rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được xuất phát từ khoản nợ mà khách hàng không trả được cho ngân hàng khi đến hạn, hay còn gọi đó là các khoản nợ quá hạn .
Chính vì vậy, Để giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh tín dụng thì trước hết ta phải có những biện pháp để phòng ngừa và hạn chế khả năng xuất hiện nợ quá hạn, giảm thiểu những tổn thất mà nợ quá hạn gây ra.
Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á- chi nhánh Hà Nội, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giải pháp xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội.”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng và giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội. Trên cơ sở đó để nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc trong vay vốn và hoàn thiện hơn các biện pháp đảm bảo an toàn để phòng ngừa nợ quá hạn.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu .
Luận văn chỉ nghiên cứu và hoàn thiện về giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại đặc biệt là Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội, nhưng kết quả thu được có thể vận dụng cho các ngân hàng khác.
Lý luận về giải pháp phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn trong ngân hàng thương mại. Giải pháp phòng ngừa và hạn chế nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc á chi nhánh Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp chung: là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tế.Từ lý luận để xem xét thực tế và từ thực tế khái quát thành lý luận.
Phương pháp cụ thể: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp quy nạp, diễn giải, mô tả…
5. Kết cấu luận văn.
Nội dung chính của luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng nợ quá hạn và xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á - chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị về xử lý nợ quá hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á- chi nhánh Hà nội.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ NỢ QUÁ HẠN VÀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Nợ quá hạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại và đem lại 80%-90% doanh thu cho các ngân hàng. Trong điều kiện cạnh tranh như ngày nay, nhu cầu của khách hàng ngày càng lớn và khó tính hơn, các ngân hàng thương mại luôn phải tìm ra các biện pháp để hoàn thiện hơn các hoạt động của mình, không chỉ mở rộng thêm về số lượng các loại hình hoạt động, tăng quy mô hoạt động của ngân hàng, mà còn phải quan tâm đến chất lượng của các hoạt động đó, nhất là vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống thấp. Tuy nhiên, trong quan hệ tín dụng việc phát sinh nợ quá hạn là điều không thể tránh khỏi.Nhưng vấn đề là ở chỗ làm thế nào để cho tỉ lệ nợ quá hạn không vượt quá con số cho phép, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại. Có thể nói nợ quá hạn luôn là vấn đề mà các ngân hàng thương mại phải quan tâm thường xuyên .
Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, bởi nó là trung gian tài chính cung cấp vốn cho nền kinh tế, điều này được thể hiện như sau: Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được tạo ra từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm…Sau đó bằng nguồn vốn huy động được trong xã hội thông qua nghiệp vụ tín dụng lại trở lại cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất xã hội. Như vậy, nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Như vậy sẽ làm cho nền kinh tế phát triển bền vững hơn.
Do vai trò rất quan trọng của hệ thống Ngân hàng thương mại, để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của nó, nhà nước và ngân hàng nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về hoạt động kinh doanh ngân hàng, tạo hành lang pháp lý trong kinh doanh và tăng cường mức độ an toàn cho hoạt động ngân hàng. Đó là một trong những điểm rất mạnh trong việc quản lý của hệ thống ngân hàng hiện nay và tình hình đó sẽ còn được cải tiến sâu hơn nữa.
Vấn đề là ở chỗ phải tìm hiểu rõ xem nợ quá hạn phát sinh từ đâu, cái gì gây nên nợ quá hạn. Và nếu nợ quá hạn xảy ra thì phải làm thế nào để khống chế, xử lý nó.
1.1.1 .Khái niệm và phân loại nợ quá hạn.
1.1.1.1. Khái niệm và nguồn gốc phát sinh nợ quá hạn .
a.Khái niệm.
Theo quyết định số 284.2000.QĐ-NHNN1 ngày 25.8.2000 về việc ban hành quy chế cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy định rõ: NQH trong kinh doanh của ngân hàng là hiện tượng của khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn mà đã cam kết trong khế ước vay trước đây. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ hay được ra hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền chậm trả.
Như vậy bản chất của NQH trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng đến thời hạn thanh toán khoản nợ người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Hay nói cách khác thì NQH là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo.
Ta có:
Tỉ lệ Nợ quá hạn (%)
=
Tổng Nợ quá hạn
x
100
Tổng dư nợ
- Ý nghĩa: Tỉ lệ nợ quá hạn phản ánh: Cứ 100 đồng cho vay thì có bao nhiêu đồng NQH.
Trong đó : +Tổng NQH bao gồm: NQH, nợ chờ xử lý, nợ khoanh.
+Tổng dư nợ cho vay, cho thuê phải xem xét đến các yếu tố:
NQH <180 ngày, 180 ngày< NQH<360 ngày
Các khỏan nợ chờ xử lý.
Nợ cho vay được khoanh.
Theo quy định của NHNN thì tỉ lệ NQH so với tổng dư nợ cho vay, cho thuê ở mức nhỏ hơn hoặc bằng 5% và NQH khó đòi chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng NQH thì NHTM đó mới được đánh giá là có hoạt động tín dụng hiệu quả. Để xem xét về thực trạng NQH, Người ta quan tâm nhiều đến rủi ro mang tính thời hạn.
Ta có:
Tỷ lệ NQH theo thời gian(%)
=
Số nợ gốc chưa trả của tất cả các khoản vay quá hạn từ 1,31,61,91…360 ngày
x
100
Tổng dư nợ cho vay, cho thuê
Dựa vào cách tính cụ thể này, các NHTM biết một cách chính xác hơn về tình hình NQH của ngân hàng mình trong từng thời điểm, so sánh với mức quy định chung, để từ đó có các biện pháp điều chỉnh, và quản lý tín dụng tốt hơn.
b.Nguồn gốc phát sinh NQH.
Khi tiến hành cấp tín dụng, Các NHTM luôn luôn mong muốn thu lại được cả gốc và lãi của khoản tín dụng đầy đủ và đúng thời hạn. Chính vì thế, khi quyết định cấp một khoản tín dụng thì các NHTM phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các bước trong quy trình tín dụng từ việc thu thập thông tin, thẩm định khách hàng, giải ngân, giám sát quá trình sử dụng, thu lại gốc và lãi.
Đặc biệt là phải làm tốt bước giám sát quá trình sử dụng khoản vay của khách hàng, nếu phát hiện thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích thì các NHTM phải có biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời. Chính vì vậy, quản lý chặt chẽ việc sử dụng vốn vay là một việc làm hết sức quan trọng trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, hạn chế khả năng xảy ra NQH.
Trên thực tế có rất nhiều những dấu hiệu cho thấy khoản vay sẽ gặp khó khăn. Nhưng chúng ta không thể dựa vào một số cách thức cụ thể nào để công bố khoản vay đó là khoản vay khó hoàn trả hay không thể hoàn trả. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng của NHTM ,Ta có thể thấy một số dấu hiệu về sự khó khăn tài chính của khách hàng.
Một là tính khả thi của dự án thấp: Khi xin vay thực hiện dự án phát triển sản xuất kinh doanh, khách hàng sẽ phải cung cấp cho NHTM các thông tin chứng minh tính khả thi của dự án. Nếu thấy tính khả thi của dự án thấp, KH không có khả năng chi trả chi phí vốn vay thì NHTM có thể từ chối khoản vay đó đối với KH.
Hai là trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính cho NH: Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính là sự gian lận trong báo cáo tài chính. Để có được nguồn vốn vay giải quyết tính cấp thiết của quá trình sản xuất kinh doanh, hay sử dụng vào mụch đích nào đó thì các doanh nghiệp có thể cung cấp các báo cáo tài chính không trung thực. Về phía các NHTM phải chú ý, phải có khả năng đọc các báo cáo tài chính, phát hiện các gian lận. Nếu không rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Ba là việc sử dụng vốn tín dụng sai mục đích. Trong quá trình giải trình hồ sơ vay vốn, KH luôn phải nêu rõ mục đích sử dụng vốn vay của mình đối với NHTM. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng vốn vay KH có thể sử dụng vốn sai mục đích ban đầu, gây ra tình trạng không có khả năng trả nợ hay khất nợ đối với NH.
Bốn là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng phát triển không lành mạnh, có thể ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp đang gặp rủi ro: thị trường tiêu thụ sản phẩm đó đang bị thu hẹp, thị trường cung cấp nguyên vật liệu bị rối loạn, hay KH vay vốn của NH gặp phải các thông tin không lành mạnh về tình hình tài chính, tình trạng hoạt động… khiến cho cổ phiếu của DN trên thị trường bị giảm giá mạnh, uy tín của DN trên thị trường không được vững chắc, các đối tác tự ý huỷ bỏ hợp đồng kinh doanh, đẩy tình hình tài chính của DN vào chỗ khó khăn.
Năm là thu nhập của người vay không ổn định, có nhiều thu nhập bất thường với khối lượng lớn Như vậy NHTM khó có thể thu lại khoản vay do tình hình tài chính của DN cũng bất ổn định, nhất là vào lúc khoản vay tới thời điểm đáo hạn tỉ lệ xảy ra NQH là rất cao.
Sáu là số vòng quay vốn tín dụng trong thực tế thấp hơn trong hợp đồng tín dụng đã kí kết dẫn đến ứ đọng vốn trong SXKD của người vay.
Ngoài ra còn một số dấu hiệu khác như: KH tự ý xin hoãn nợ, khất nợ, hoàn trả nợ vay NH chậm hay quá kỳ hạn, không đầy đủ như đã cam kết, gia tăng TSCĐ qua việc sáp nhập hay mua lại của các DN khác, các thảm hoạ thiên nhiên xảy ra: bão lụt, hoả hoạn…
Đó là các dấu hiệu khó khăn về tài chính của KH cũng có nghĩa là khả năng trả nợ vay của KH thấp. Trên cơ sở các dấu hiệu này, NH sẽ tìm ra các biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến những khoản NQH có thể gây ra RRTD.
1.1.1.2.Phân loại NQH .
Có rất nhiều nguồn gốc làm phát sinh NQH. Vấn đề là ở chỗ, khi NQH phát sinh thì làm thế nào để xử lý nó. Để tiện cho việc quản lý tín dụng và xây dựng kế hoạch thu hồi vốn vay trong từng trường hợp cụ thể, giải quyết NQH thì các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số tiêu thức phân chia thường được áp dụng trong các NHTM.
Căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản vay:
+ NQH dưới 180 ngày
+ NQH từ 180 ngày đến 360 ngày
+ NQH trên 360 ngày.
Căn cứ vào khả năng thu hồi:
+ NQH đòi đủ 1000%. + NQH khó đòi khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài. + NQH không có khả năng thu hồi.
Căn cứ vào thành phần kinh tế:
+ NQH của các DNNN.
+ NQH của các DNTN
+ NQH của các công ty cổ phần, công ty TNHH.
+ NQH của các hộ cá thể
+ NQH của các DN có vốn đầu tư nước ngoài
Căn cứ theo loại tiền cho vay:
+ NQH theo VNĐ
+ NQH theo ngoại tệ
Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh:
+ NQH do lỗi người vay: yếu kém về trình độ quản lý, khả năng cạnh tranh, do người vay cố tình không trả nợ…
+ NQH do lỗi người cho vay: thường bao giờ cũng gắn liền với lỗi người vay trong việc đồng tình, thông đồng…với khách hàng.
Căn cứ vào mức độ đảm bảo:
+ NQH được đảm bảo hoàn toàn
+ NQH được đảm bảo một phần
+ NQH không được đảm bảo.
Như vậy, một khoản vay không có khả năng trả nợ vào thời điểm đáo hạn thì khách hàng có thể xin gia hạn nợ. Tuỳ điều kiện từng khách hàng mà NH có chấp nhận hay không, nếu như hết thời hạn gia hạn nợ mà khách hàng vẫn không có khả năng thanh toán thì NHTM sẽ chuyển toàn bộ khoản vay này sang NQH và khách hàng lúc này sẽ phải chịu lãi suất NQH. Nhờ cách phân chia này đã giúp cho các NHTM đưa ra các biện pháp xử lý thu hồi gốc và lãi của khoản vay này và giảm tỉ lệ rủi ro xuống mức thấp nhất có thể.
1.1.2. Nguyên nhân phát sinh NQH.
1.1.2.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng:.
Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên NQH đối với các NHTM. Từ khi hoạt động của NHTM ra đời, phát triển và hoàn thiện hơn thì tới 80% nguyên nhân gây RRTD là từ phía khách hàng. Các NHTM cho đến ngày nay cũng đưa ra nhiều biện pháp và có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc hạn chế RRTD từ nguyên nhân này, việc “khám sức khoẻ” của KH trước, trong và sau khi cho vay, độ tin cậy trong quá trình quan hệ, mục đích sử dụng tiền vay, hiệu quả của phương án SXKD là cơ sở vững chắc cho việc quyết định có cho vay hay không. Tuy nhiên, NQH vẫn xảy ra và trở thành vấn đề bức xúc trong hệ thống NHTM nước ta hiện nay, vậy nguyên nhân là do đâu.
a. Rủi ro trong công việc kinh doanh của người đi vay.
Trong điều kiện phát triển như ngày nay ,chúng ta chủ yếu xét đến các DN. Khi các DN được phép vay một khoản vay để thực hiện một dự án kinh doanh thì phần chi phí để trả cho NH được trích từ lãi mà dự án này thu được. Như vậy, “sức khoẻ” của khoản tín dụng phụ thuộc vào tính khả thi của dự án. Cũng có nghĩa là, Bất cứ một rủi ro nào trong quá trình SXKD của doanh nghiệp (đang sử dụng vốn của NH) cũng đều ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ NH.
Tính rủi ro trong công việc kinh doanh của DN có thể do việc triển khai dự án đầu tư SXKD không khoa học, chưa thực hiện kỹ càng, xác thực. Các số liệu về mức tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, chất lượng NVL đầu vào, các yếu tố cấu thành nên giá thành sản phẩm chưa đầy đủ. Ngoài ra, cũng có thể có những nguyên nhân bất khả kháng, ngoài ý muốn của các điều kiện sản xuất, gây nên tình trạng khó khăn trong làm ăn, mang lại rủi ro cho DN và làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ NH ở các mức độ khác nhau.
b. Các thiệt hại DN phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung cấp.
Nếu giá cả của NVL trên thị trường tăng do khan hiếm hay do một lý do nào khác mà DN không thể không tiến hành SX. Như vậy sẽ đẩy giá thành của mỗi đơn vị sản phẩm tăng lên, trong khi đó giá bán sản phẩm trên thị trường lại không thay đổi sẽ làm cho tổng doanh thu giảm xuống, lợi nhuận thu được từ dự án cũng giảm so với kế hoạch.
Còn nếu như tăng giá bán sản phẩm để bù đắp phần chi phí tăng thêm thì sẽ làm cho việc tiêu thụ gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn chậm, dễ dàng vi phạm việc trả nợ NH về mặt thời hạn.
c. Doanh nghiệp phải chịu thiệt haị trên thị trường tiêu thụ.
Nếu kế hoạch sản phẩm của dự án SXKD không thực hiện kĩ càng, chính xác thì sẽ làm nảy sinh hai vấn đề gây rủi ro trong SXKD của DN. Bởi nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế rất nhạy cảm.
+ Thứ nhất là: Nếu khối lượng sản phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu thị trường tiêu thụ sẽ gây nên tình trạng ứ đọng hàng và hậu quả là vốn bị ứ đọng khả năng thu hồi chậm.
+ Thứ hai là: Nếu chất lượng sản phẩm kém, không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng gây nên tình trạng ứ đọng vốn do không bán được hàng. Nếu doanh nghiệp phải bán với giá thấp hơn giá trị của hàng hoá, phải bỏ thêm chi phí quảng cáo, chi phí sửa chữa… Như vậy sẽ làm tăng tính rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp và việc trả nợ cho NH đúng thời hạn khó mà thực hiện được
d. Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích.
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích sẽ không đảm bảo an toàn của vốn vay trong quá trình sử dụng, sẽ gây lãng phí hay mất vốn. Như vậy NH cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ của mình.
e. Năng lực tài chính của DN, của chủ dự án không lành mạnh khả năng thanh toán kém.
Có nghĩa là các nguồn thu của DN thì hạn chế trong khi các khoản nợ đến hạn của DN ngày càng lớn như: nợ ngân sách, trả lương CNVC, nợ người bán, nợ NH…Và cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý: Giá trị TSCĐ tăng nhanh trong khi quy mô của DN lại không có khả năng mở rộng.
g. Do ý muốn chủ quan của người đi vay không trả nợ cho NH hay là rủi ro đạo đức của người đi vay.
Như đã biết, NQH xảy ra khi người đi vay không trả được nợ cho NH tại thời điểm đáo hạn. Lý do có thể do tình trạng tài chính yếu kém, DN khất nợ vay đối với NH hay doanh nghiệp cố ý không muốn trả nợ để dùng khoản tiền đó đầu tư kiếm lời.
1.1.2.2.Nguyên nhân từ phía NH.
Tuy chiếm tỉ lệ không cao trong các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng - NQH, nhưng nó lại phản ánh trình độ, khả năng quản lý, năng lực kinh doanh của NHTM.
Trước hết là ở tầm quản lý, Ban quản trị NH phải đưa ra được một chính sách cho vay phù hợp với thực tế. Bởi chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của NH. Chính sách đưa ra đồng bộ, thống nhất, đầy đủ, đúng đắn, sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng khi thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả KT-XH của hoạt động tín dụng, nếu không sẽ dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn, như vậy sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng - NQH.
Thứ hai là NH chưa thật chú trọng vào mục tiêu của các khoản vay, tính toán thiếu chính x