Cùng với nhân loại, chúng ta đã đi qua những năm tháng cuối cùng của thế kỷ XX và bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ và có tính phổ biến trên phạm vi thế giới mà theo dự đoán sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ. Bước vào thiên niên kỷ mới, cùng với sự đổi mới mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội, hệ thống giáo dục đặc biệt là giáo dục đại học Việt Nam đã và đang có những chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều mặt.
44 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Cùng với nhân loại, chúng ta đã đi qua những năm tháng cuối cùng của thế kỷ XX và bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ và có tính phổ biến trên phạm vi thế giới mà theo dự đoán sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ. Bước vào thiên niên kỷ mới, cùng với sự đổi mới mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội, hệ thống giáo dục đặc biệt là giáo dục đại học Việt Nam đã và đang có những chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều mặt. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cho nền giáo dục đại học nhiều cơ hội mới nhưng bên cạnh đó là những thách thức to lớn. Những thách thức đó đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đổi mới để đưa nền giáo dục đại học trở thành nền giáo dục hiện đại, hội nhập khu vực và quốc tế.
Tính cấp thiết của đề tài.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo giữ vai trò trung tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Đó là nguồn lực có ý nghĩa quyết định mọi nguồn lực bởi nguồn lực đặc biệt này vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Tốc độ phát triển và đổi mới đất nước phụ thuộc rất nhiều vào số lượng, chất lượng và hiệu quả giáo dục của ngành giáo dục nước nhà. Nhiệm vụ quan trọng nhất của hệ thống giáo dục đại học là phải đào tạo được nguồn nhân lực trình độ cao và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tăng trưởng bền vững.
Trong thực tế, lời giải cho bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam chưa có đáp số rõ ràng. Chúng ta nên mở rộng quy mô hay tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Điều đó đã dẫn đến một số bất cập trong hoạch định chính sách, cản trở sự phát triển và hội nhập của nền giáo dục đại học nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ nhận thức đó, em đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam” làm đề tài cho đề án môn học của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích thực trạng quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam để chỉ ra những cơ hội cũng như những thách thức của nền giáo dục đại học nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển quy mô giáo dục đại học Việt Nam một cách hợp lý.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là nghiên cứu quy mô sinh viên, cơ cấu các trường đại học trong cả nước từ năm 1990, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay trong mối quan hệ với bảo đảm chất lượng đào tạo.
Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tổng hợp, so sánh, các số liệu về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam để phân tích và luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn.
Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài được kết cấu làm ba chương:
Chương I: Lý luận về quy mô và chất lượng giáo dục đại học. Sự cần thiết phải giải quyết bài toán giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Chương II: Thực trạng về quy mô và chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
Chương III: Những định hướng và giải pháp nhằm giải quyết bài toán quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể nội dung của từng chương ở các phần tiếp theo
Chương I
Lý luận về quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Sự cần thiết phải giải quyết bài toán giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Một cách khái quát nhất có thể hiểu rằng giáo dục là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất như: niềm tin, đạo đức, thái độ… ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội.
Theo khái niệm trên ta thấy, ở đâu có truyền đạt và lĩnh hội tri thức, sự tác động qua lại để hình thành phẩm chất con người thì ở đó có giáo dục.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp hơn thì giáo dục là một quá trình được tổ chức có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người. Khái niệm này nhấn mạnh tới tính mục đích và tính kế hoạch của quá trình truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội. Vì vậy, khái niêm giáo dục ở đây thường gắn với nhà trường vì nhà trường là nơi tổ chức giáo dục một cách có hệ thống và có kế hoạch chặt chẽ nhất.
Quy mô và chất lượng giáo dục đại học
1. Giáo dục đại học và quy mô giáo dục đại học .
1.1 Giáo dục đại học .
Bước vào thế kỷ XXI, các quốc gia trên thế giới đều đẩy nhanh tiến trình cải cách giáo dục. Chưa bao giờ cải cách giáo dục lại trở thành một hiện tượng nổi bật và mang tính toàn cầu như bây giờ. Tại sao lại có hiện tượng này? Có một cách lập luận đã quen thuộc với mọi người để trả lời câu hỏi trên: Cạnh tranh quốc tế là cạnh tranh về khoa học - kỹ thuật, cạnh tranh về khoa học - kỹ thuật là cạnh tranh về nhân tài, cạnh tranh về nhân tài suy cho đến cùng là cạnh tranh về giáo dục. Không phải ngẫu nhiên, tình cờ mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều xếp giáo dục vào vị trí quốc sách hàng đầu. Rất nhiều chuyên gia đã nhận định rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của giáo dục.
Luật giáo dục (năm 1998) của Việt Nam quy định: “Giáo dục đại học Việt Nam đào tạo trình độ đại học và trình độ cao đẳng”[11].
Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong ba năm đối với người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp người học có kiến thức chuyên môn và kỹ năng cơ bản về một ngành nghề và có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, từ một đến hai năm đối với những người tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp người học có kiến thức chuyên môn và kỹ năng cơ bản về một ngành nghề và có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Trong hệ thống giáo dục - đào tạo , giáo dục đại học có vị trí quan trọng bậc nhất trong toàn bộ chiến lược “đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quy mô giáo dục đại học và các chỉ tiêu đánh giá quy mô giáo dục đại học
1.2.1 Khái niệm về quy mô giáo dục đại học.
Theo quan điểm hệ thống, giáo dục đại học là một hệ thống con trong hệ thống kinh tế xã hội nhưng bản thân giáo dục đại học cũng là một hệ thống bao gồm nhiều phân hệ khác nhau như số lượng, chất lượng, mạng lưới phân bổ, sở hữu, ngành, nghề đào tạo…Như vậy, quy mô giáo dục là một bộ phận trong hệ thống giáo dục đại học. Khi nói đến quy mô giáo dục đại học của một quốc gia trong một thời kỳ, người ta nói đến số lượng sinh viên đang được đào tạo theo các phương thức đào tạo, loại hình đào tạo và theo các chuyên ngành đào tạo khác nhau. Thêm vào đó, khi nói đến quy mô giáo dục đại học người ta còn nghiên cứu số lượng các trường đại học và cao đẳng, cơ cấu và quy mô của các trường này.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, quy mô giáo dục đại học chỉ đề cập đến số lượng sinh viên, số lượng và cơ cấu các trường đại học và cao đẳng theo các bậc học mà thôi.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá quy mô giáo dục đại học.
ở mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi quốc gia khác nhau, người ta có thể dùng các chỉ tiêu khác nhau để phản ánh quy mô giáo dục đại học. Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đã lựa chọn hệ thống chỉ tiêu sau để đo lường quy mô giáo dục đại học.
Loại I: Các chỉ tiêu tuyệt đối.
Số lượng sinh viên: Số lượng sinh viên đang theo học ở các trường đại học - cao đẳng, các cơ sở giáo dục đại học, theo học theo các chương trình đào tạo từ xa.
Số lượng các trường: Chủ yếu nghiên cứu số lượng các trường đại học - cao đẳng trong cả nước.
Loại II: Các chỉ tiêu tương đối
Tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân
Tỷ lệ sinh viên trên dân số trong độ tuổi
Tỷ lệ sinh viên trên tổng lao động xã hội
Trong hệ thống chỉ tiêu trên thì các chỉ tiêu loại II có ý nghĩa đặc biệt trong việc so sánh quy mô sinh viên của một quốc gia trong các thời kỳ khác nhau và so sánh quy mô sinh viên của các quốc gia trên thế giới. Các chỉ tiêu về quy mô cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong chỉ số tổng hợp giáo dục đại học của một quốc gia.
2. Chất lượng giáo dục đại học và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng giáo dục đại học.
2.1 Khái niệm về chất lượng giáo dục đại học
Khi nói đến một nền giáo dục người ta thường đề cập đến 2 mặt: Mặt chất lượng và mặt quy mô đào tạo. Chúng ta đã xem xét thế nào là quy mô đào tạo, còn chất lượng giáo dục sẽ được hiểu như thế nào? Hiện nay có rất nhiều quan điểm về chất lượng giáo dục đại học. Theo quan niểm của Hội đồng giáo dục UNESCO Paris họp ngày 5-9/10/1998 đã xác định: “Chất lượng giáo dục là một khái niệm đa chiều, bao chùm mọi chức năng và sự vận động của nó bao gồm: Nội dung tri thức giáo dục, các chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học, đội ngũ giáo viên, sinh viên, cấu trúc hạ tầng và môi trường học thuật”[2]. Tuy nhiên, cũng có thể quan niệm rằng: Nên xem chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu. Sinh viên tốt nghiệp từ một trường đại học là có chất lượng nếu như những mục tiêu của nhà trường đặt ra đối với sinh viên đều đạt được. Rõ ràng mục tiêu đặt ra cho sinh viên sẽ khác nhau ở một trường đại học quốc gia và một trường đại học miền núi. Đối với một nền giáo dục đại chúng quan niệm về chất lượng cũng khác với một nền giáo dục tinh hoa, dành cho số ít.
2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng giáo dục đại học
Không phải dễ dàng chúng ta lượng hoá được chất lượng của một nền giáo dục. Chất lượng giáo dục - đào tạo được thể hiện rõ ràng nhất là việc sinh viên sau khi tốt nghiệp có đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động trong nước và quốc tế không? Họ có là những con người năng động, sáng tạo, tự chủ, có đầu óc phê phán, có năng lực giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, có khả năng tự học,tự nghiên cứu suốt đời...? Tuy nhiên thông qua một số chỉ tiêu sau đây sẽ phần nào đánh giá được chất lượng giáo dục của một quốc gia.
Chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo theo giáo viên.
Chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo theo chương trình đào tạo.
Chỉ số đánh giá năng lực đào tạo của nhà trường.
Các nhân tố tác động đến quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Hệ thống giáo dục đại học là một phân hệ trong hệ thống kinh tế - xã hội nên quy mô và chất lượng giáo dục đại học chịu sự tác động của các nhân tố sau:
1. Tốc độ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và cơ cấu kinh tế của quốc gia
Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao này là một trong những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến quy mô và chất lượng giáo dục đại học. Tốc độ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và cơ cấu kinh tế của một quốc gia lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhu cầu nguồn lực này. Như vậy, có thể thấy đây là nhân tố tác động trực tiếp đến hai mặt của hệ thống giáo dục đại học.
Khi nền kinh tế - xã hội phát triển nhanh, tạo ra một khoảng nhu cầu to lớn nguồn nhân lực có trình độ cao. Điều đó thúc đẩy giáo dục không chỉ tăng về số lượng mà còn phải đảm bảo chất lượng để đáp ứng yêu cầu đó. Đồng thời khi một quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cũng đồng nghĩa với việc là họ sẽ có thêm các nguồn lực để tạo cơ sở kinh tế, vật chất tiềm năng cho việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Với tốc độ phát triển khoa học - công nghệ nhanh chóng như hiện nay và ngày càng nhanh hơn nữa trong tương lai đã làm cho rất nhiều ngành mới xuất hiện nhưng bên cạnh đó một số ngành không còn phù hợp nữa cũng không có chỗ để tồn tại. Điều đó phần nào tạo ra một sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, qua đó mà ảnh hưởng đến ngành nghề đào tạo của nền giáo dục. Chúng ta cần ưu tiên phát triển các trường đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nhu cầu cấp thiết của các ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia như công nghệ thông tin, điện, điện tử, quản lý, kinh tế tài chính, sư phạm… đồng thời cũng cần xoá bỏ những ngành không còn thích hợp trong điều kiện mới nữa.
Một vấn đề hết sức phải lưu tâm là trong giáo dục đào tạo luôn luôn có một độ trễ nhất định do thời gian đào tạo quy định. Vì vậy, khi lập kế hoạch đào tạo, cần phải tính đến yếu tố này và có biện pháp khắc phục độ trễ. Nếu bỏ qua yếu tố này có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp, gây nhiễu cho kỳ sau hoặc có thể không đáp ứng nhu cầu, sẽ bỏ qua có hội tìm việc làm, làm giảm hiệu quả công tác giáo dục.
Quy mô dân số và tốc độ tăng dân số của một quốc gia
Quy mô giáo dục đại học của một quốc gia chịu nhiều sự chi phối khác nhau của các yếu tố dân số như quy mô dân số của quốc gia đó, những biến động về dân số (đặc biệt là những tốc độ phát triển dân số). Một nước có quy mô dân số lớn, thông thường số lượng sinh viên cũng lớn hơn rất nhiều một nước có quy mô dân số nhỏ. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi so sánh quy mô dân số và quy mô sinh viên của Trung Quốc (một nước có trên 1 tỷ dân) và Singarpo (một nước chỉ có vài triệu dân). Do đó mà người ta thường không dùng chỉ tiêu tuyệt đối (số lượng sinh viên, số lượng trường…) để đánh giá vào chỉ số tổng hợp của nền giáo dục.
Với một nước có tốc độ tăng dân số nhanh, hàng năm sẽ có thêm nhiều học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, và đương nhiên sẽ có thêm rất nhiều người có nguyện vọng được học đại học hoặc cao đẳng. Nếu như quy mô của các trường vẫn không được mở rộng, không có thêm các loại hình đào tạo, thì đương nhiên chúng ta sẽ dần không đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân. Và hơn nữa các chỉ tiêu tương đối của chúng ta về phản ánh quy mô cũng giảm một cách tương đối. Tuy nhiên cũng có một câu hỏi lớn đặt ra là, chúng ta sẽ mở rộng quy mô như thế nào trong mối quan hệ tương quan với tốc độ tăng dân số để đảm bảo các nguồn lực cho giáo dục đại học? Hơn nữa, sự phân bố dân cư và tình trạng kinh tế - xã hội của dân cư cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quy m ô và chất lượng giáo dục đại học.
3. Cơ chế quản lý giáo dục đại học tác động đến quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Thực tế cho thấy rằng, việc phát triển quy mô giáo dục đại học phự thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý, chính sách của Nhà nước. Quy mô đào tạo sẽ được mở rộng một cách nhanh chóng nếu Nhà nước có các chính sách cho phép nhiều thành phần kinh tế có thể tham gia vào lĩnh vực này và ban hành các văn bản với nội dung khuyến khích đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Tuy nhiên nếu như Nhà nước không có được sự quản lý hiệu quả thì dẫn đến tình trạng không đảm bảo về chất lượng giáo dục. Ngược lại, nếu như Nhà nước thấy rằng xã hội chưa có nhu cầu tăng thêm nguồn nhân lực trình độ và giành nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực khác. Khi đó, quy mô sẽ tạm thời được giữ nguyên, thậm chí là còn giảm nhưng Nhà nước cũng sẽ có những chính sách để nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, trong mỗi điều kiện nhất định, mỗi quốc gia cần có cơ chế quản lý thích hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của mình.
4. Các điều kiện sẵn có phục vụ cho giáo dục đại học
Các điều kiện sẵn có phục vụ cho giáo dục đại học bao gồm đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, tài chính cho giáo dục đại học. Những nhân tố này là cơ sở xác định quy mô đào tạo trong tương lai. Nó vừa phản ánh khả năng phát triển vừa là kết quả chiến lược của đầu tư cho phát triển giáo dục đại học. Mục tiêu của chúng ta là phải xây dựng được quy mô hợp lý, một quy mô có thể kiểm soát được chất lượng nhưng không để lãng phí các nguồn lực. Do đó chúng ta phải sử dụng các nguồn lực trên một cách hiệu quả nhất. Hay nói một cách khác, các điều kiện sẵn có và mức độ đáp ứng của chúng đến đâu thì chúng ta nên mở rộng quy mô đến đó để đảm bảo chất lượng.
III. Sự cần thiết phải giải quyềt bài toán giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế chung, một tất yếu khách quan. Việt Nam cũng đang đứng trước bối cảnh hội nhập và liên kết, dù có muốn hay không muốn chúng ta cũng phải hoà vào dòng chảy chung của thế giới. Để có thể đứng vững và khẳng định được mình chúng ta cần phải chuẩn bị nhiều yếu tố nhưng trong đó thì yếu tố con người là yếu tố có tính chất quyết định nhất. Chúng ta cần những con người có năng lực thực sự, sáng tạo, tự chủ, có nănglực tự học, tự nghiên cứu suốt đời, có khả năng tạo nghiệp. Những con người này sẽ là những chủ thể đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng thực trạng giáo dục đại học nước ta không phải không có những bất cập và ít nhiều ảnh hưởng đến việc phát triển nền giáo dục nước nhà. Như vậy, do những yếu tố chủ quan cũng như những yếu tố khách quan đòi hỏi sự cần thiết phải giải quyết bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta cần có nguồn nhân lực trình độ cao, một nguồn nhân lực hướng vào nền kinh tế tri thức. Đó cũng là mục tiêu của chất lượng giáo dục đại học là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân lực tinh hoa. Đồng thời cũng cần phải tiến hành mở rộng quy mô giáo dục đại học. Mở rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu về nguồn lực đồng thời nó góp phần nâng cao dân trí. Do vậy, nếu chúng ta có thể huy động các nguồn lực thì không nên hạn chế việc tăng quy mô bằng các rằng buộc quá chặt chẽ và cứng nhắc.
Xuất phát từ yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế chung của thời đại, nó được thể hiện rõ nét thông qua những hiện tượng quy tụ các quá trình xuyên quốc gia, làm cho kinh tế,tư tưởng, văn hoá của các quốc gia thâm nhập lẫn nhau. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra cơ hội cho nước này thì đồng nghĩa với việc một quốc gia khác đang có những thách thức. Xét trên một khía cạnh nào đó, nếu như chất lượng giáo dục của Việt Nam ngày càng tốt hơn, bằng cấp của chúng ta được thế giới thừa nhận thì chúng ta sẽ thu hút không chỉ sinh viên trong nước mà còn thu hút được sinh viên ở các quốc gia khác đến theo học. Nếu nền giáo dục đại học trong nước vẫn chưa có giải pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa chất lượng đại học thì ngay cả học sinh trong nước sẽ có xu hướng ra nước ngoài học tập nhiều bởi nguồn tài chính của họ có thể chấp nhận được mức học phí đó và họ mong muốn có một trình độ thực sự, có bằng cấp được các nước trên thế giới công nhận để có cơ hội có việc làm tốt hơn.
3. Do thực trạng còn nhiều bất cập của nền giáo dục nước ta
Trong những năm gần đây, nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học Việt Nam nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng đang có những vấn đề đang đặt ra: Cả quy mô và chất lượng giáo dục đại học đều chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của xã hội, chưa đáp ứng được như cầu phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam còn thiếu kinh phí cho giáo dục đại học, cơ sở vật chất còn hạn chế, còn tồn tại những bất cập trong hoạch định chính sách… Những điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giáo dục nước ta.
“Nhân tài là nguyên khí của quốc gia”, là nguồn lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của đất nước. Nếu như Việt Nam để xảy ra tình trạng thiếu nhân tài thì đó sẽ là nguy cơ lớn, thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
III. Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết bài toán quy mô và chất lượng giáo dục đại học
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong những năm gần đây, giáo dục đại học ở Trưng Quốc phát triển nhanh chóng (chỉ tính 3 năm 1999 - 2001 tăng 90% về quy mô sinh viên)[2]. Nhà nước bằng nhiều chủ trương, bằng nhiều cách, bằng nhiều hình thức để phát triển mạnh giáo dục đại học